TheôngnghiệpViệtNamđangthiếuampquotngườiampquotdẫndắkeo nha kai 5o TS. Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI, sau gần 30 năm đổi mới của nền kinh tế, nông nghiệp Việt Nam đã có những bước chuyển biến tích cực, ngoài việc cung cấp nguồn lương thực, thực phẩm để duy trì và cải thiện cuộc sống cho hơn 90 triệu dân, hàng năm đã đóng góp 18-20% GDP, 23-35% giá trị xuất khẩu cho nền kinh tế. Tuy nhiên, TS. Võ Văn Quang, Phó Chủ tịch Hiệp hội các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp thẳng thắn nhìn nhận rằng, ngoài những thành tích bề nổi và ánh hào quang lấp lánh của những chiếc huy chương, nông nghiệp Việt Nam đang bộc lộ những yếu kém đáng lo ngại. Đó là nông nghiệp Việt Nam đang phát triển về bề rộng mà chưa có bề sâu, lao động thủ công nhỏ lẻ dựa vào nông hộ là chủ yếu nên việc áp dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất còn quá nhiều hạn chế dẫn đến năng suất thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao. Bên cạnh đó, chi phí và giá thành sản phẩm cao nên rất khó cạnh tranh khi tham gia thị trường xuất khẩu. Chỉ có 1,01% các doanh nghiệp trong nước tham gia hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và 64,5% số doanh nghiệp đó có vốn dưới 5 tỷ đồng. Thực tế đó đã dẫn đến hệ lụy là nền nông nghiệp Việt Nam trong cơ chế thị trường thiếu hẳn một lực lượng nòng cốt làm trụ cột và dẫn dắt người nông dân”- ông Quang nhận định. Thực tế nền nông nghiệp hiện đang lệ thuộc quá nhiều vào thị trường, đua sức sản xuất những cái thị trường đang có mà chưa có người đủ sức, đủ tầm để nghiên cứu sản xuất những cái thị trường cần. Chẳng hạn như gạo Việt Nam giá bán luôn thấp hơn so với gạo cùng loại của Thái Lan từ 3-5%, giá chè xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn đến 70% so với giá chè của Sri Lanka và 60% giá chè của Ấn Độ, giá cà phê thì thấp hơn giá cà phê của Brazil đến 20%, trong khi đây đều là những nông sản mà Việt Nam có sản lượng xuất khẩu đứng nhất, nhì thế giới. Phát biểu tại Diễn đàn, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Công Tuấn cũng nhận định, trước một loạt hiệp định thương mại vừa ký kết, thách thức đối với nền nông nghiệp Việt Nam rất lớn. Đặc biệt những khó khăn tồn tại từ trước đến nay tiếp tục là những rào cản cho hàng hóa nông sản Việt Nam như điều kiện sản xuất nhỏ lẻ, đất đai manh mún… Ông Tuấn cũng khuyến cáo về những khả năng phát sinh tranh chấp thương mại khi nền kinh tế nông nghiệp hội nhập sâu nhưng năng lực giải quyết tranh chấp của doanh nghiệp, người dân còn thấp. Để tranh thủ thời cơ, tận dụng điểm mạnh, vượt qua thách thức, trong thời gian tới,Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn sẽ thực hiện đồng loạt nhiều giải pháp, trong đó nhấn mạnh việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nông, lâm, thủy sản, thực hiện tái cơ cấu sản xuất các ngành hàng nông sản xuất khẩu chủ lực để đáp ứng được thị hiếu, yêu cầu của khách hàng tại các thị trường chính. Cùng với đó là tăng cường áp dụng khoa học công nghệ, tiêu chuẩn kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh để cạnh tranh hiệu quả với hàng nhập khẩu, tăng cường thu hút đầu tư dựa trên lợi thế so sánh của ngành hàng, tổ chức sản xuất nhằm nâng cao giá trị gia tăng cho nông sản đặc biệt là ở các khâu sau thu hoạch. Ông Quang kiến nghị, Nhà nước và chính quyền địa phương cần có chính sách tạo quỹ đất cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn bằng các quỹ đất của các nông lâm trường làm ăn kém hiệu quả, các quỹ đất chưa sử dụng và hỗ trợ chi phí giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tiền thuê đất, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận đất đai, có đủ đất sạch để tiến hành sản xuất. Ngoài chính sách về đất, ông Quang cũng cho rằng, người nông dân còn cần một chính sách hợp lý về vốn bởi đặc thù của các dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là cần nhiều vốn. |