【lịch thi đấu giải vô địch thổ nhĩ kỳ】Bùi Thị Hý

 人参与 | 时间:2025-01-24 23:47:25

Gốm sứ Chu Đậu

Bà Đặng Thị Ngọc Thịnh,ùiThịHýlịch thi đấu giải vô địch thổ nhĩ kỳ Phó Chủ tịch nước và ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI trao cúp và hoa cho hậu duệ họ Bùi (gốc Phí) của bà Bùi Thị Hý.

Tích cổ địa linh Quang Ánh trang

Theo các cuốn gia phả cổ của dòng họ Bùi (gốc Phí) để lại, bà Bùi Thị Hý sinh năm 1420 tại Bùi Gia trang thuộc trang Quang Ánh, huyện Trường Tân (sau đổi thành huyện Thiện Phúc), nay là thôn Quang Tiền, xã Đồng Quang, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Bà sinh ra trong một gia đình có nhiều đóng góp xây dựng nhà Trần, nhà Lê, đặc biệt là trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi đánh đuổi quân Minh giành độc lập cho đất nước.

Bà là hậu duệ đời thứ năm của cụ Phí Mộc Lạc, cụ sinh năm 1264 đời Trần Thánh Tông, lớn lên trong thời Trần Nhân Tông, làm quan dưới thời Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Năm 1304, cụ được vua Trần Anh Tông cho mang họ Bùi, hình thành nên một dòng họ Bùi lớn trong hàng chục họ Bùi hiện nay.

Bùi Thị Hý là con gái đầu của quan Mã Vũ tướng quân Bùi Quốc (Đình) Nghĩa, bà là cháu gái gọi Bùi Quốc Hưng là ông nội, gọi Bùi Thị Ngọc Liễu, Bùi Bị, Bùi Thu là bác ruột; gọi Đinh Lễ là bác rể. Bùi Quốc Hưng, Bùi Bị, Đinh Lễ là khai quốc công thần nhà Lê trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh.

Căn cứ vào gia phả của dòng họ Bùi gốc họ Phí ở trang Quang Ánh xưa và cuốn sách cổ “Tích cổ địa linh Quang Ánh trang” và nhiều tài liệu khác của dòng họ, đặc biệt là tấm bia đá cổ tạc thời Hồng Đức thứ 9 (1478) đời vua Lê Thánh Tông, thì “Bùi gia trang” do chính lão tướng Bùi Quốc Hưng lập vào năm 1394 khi đang làm quan dưới trướng của Tể tướng Hồ Quý Ly cuối thời nhà Trần. Ông cho xây dựng tại đây trang ấp, tuyển người làm ruộng, làm lò gốm, rèn vũ khí, huấn luyện quân sĩ để khi giặc đến là có quân lương tham gia đánh giặc được ngay. Từ đó đã có 15 trang (làng) chuyên sản xuất đồ gốm sứ mọc lên dọc sông Định Đào, sông Thái Bình ở Hải Dương.

Bốn năm sau ngày chiến thắng quân Minh, năm 1432, lão tướng Bùi Quốc Hưng đã về dựng “Giáo tự đường” là trường dạy chữ và dạy nghề cho hai cháu nội là Bùi Thị Hý 12 tuổi và em là Bùi Đình Khởi tại “Bùi gia trang”.

Theo gia phả, ngay từ thuở nhỏ, Bùi Thị Hý đã là người ham học, ham hiểu biết, bà không chỉ thông kinh sử, giỏi thơ phú, ham vẽ mà còn là người thích võ và trượng nghĩa. Dòng họ Bùi ở đây, vẫn truyền tụng câu chuyện về cuộc thi vẽ, có bà tham dự.

Năm Nhâm Tuất 1442, bà đi thuyền đến dự lễ hội và vãn cảnh đền Kiếp Bạc. Tại đây, tình cờ bà gặp ông Đặng Sĩ, một đại gia làng Chu Đậu, làng chuyên làm chiếu cũng đi hội. Gặp nhau, cả hai cùng nhau trao đổi thơ phú, truyện trò không muốn dứt ra. Sau cuộc gặp gỡ đó không lâu, bà Bùi Thị Hý đã kết duyên cùng với đại gia Đặng Sĩ.

Sau khi lấy chồng, bà đã theo chồng về quê ở trang Chu, cùng chồng dựng lò làm nghề chế tác đồ sứ bán cho các thương nhân trong và ngoài nước. Trong một lần làm ra chiếc bình gốm hoa lam, bà đã phóng bút viết vào sản phẩm “Thái Hòa bát niên, Nam Sách châu, tượng nhân Bùi Thị Hý bút”. Sản phẩm đó lưu lạc đến tận Thổ Nhĩ Kỳ.

Nghê Chu Đậu

Năm 1452, bà cùng chồng trở về quê mình ở trang Quang Ánh, cùng em là Bùi Khởi làm sành sứ để bán hàng cho các thương nhân và cung tiến cho triều đình. Ở Quang Ánh, bà đã tạo ra nhiều sản phẩm tuyệt đẹp, một lần nữa bà lại khắc “Bùi Thị Hý tạo”, trên một con Nghê, hiện vật quan trọng này hiện nay đang được dòng họ Bùi gốc Phí ở Quang Ánh, Quang Tiền, Gia Lộc, Hải Dương giữ.

Thấy việc buôn bán với nước ngoài thu được nhiều tiền hơn, ông bà đã mang hàng đi nhiều nước để giao thương. Trong một chuyến đi, đoàn thuyền của ông Đặng Sĩ và các gia nô gặp bão, thuyền bị bão đánh tan tành, ông Đặng Sĩ và gia nô đều chết trên biển Đông. Những năm gần đây khi khai quật những con thuyền đắm chở đầy gốm sứ, trong đó có nhiều gốm sứ của Chu Đậu, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây là đoàn thuyền gốm sứ của chồng và gia đình bà Bùi Thị Hý. Trong suốt ba năm chịu tang, nỗi đau mất chồng vẫn không làm tan được ước mơ sáng tạo và để quên đi nỗi đau đó, bà lao vào truyền nghề và làm ra nhiều sản phẩm mới với sức sáng tạo không ngờ.

Trong lúc đau khổ đó, có một người đàn ông họ Đặng khác ở ngay Chu trang hiểu, khâm phục nghị lực phi thường của bà, đã đem lòng yêu quý bà, mặc dù biết bà đã gần 40 tuổi. Sau nhiều ngày suy nghĩ, thắp hương khấn vái xin tổ tiên và chồng là Đặng Sĩ cho mình được tái giá, bà đã chấp nhận lời cầu hôn của Đặng Phúc.

Từ đó bà và ông Đặng Phúc lại tuyển người, làm ra nhiều hàng sứ mới. Không dừng ở sản xuất, ông bà học Đặng Sĩ, sắm thuyền, vượt biển, mang hàng sứ do tay mình làm ra đi bán ở các nước. Trong tài liệu gia phả của dòng họ có viết về bà như sau “Tam phiên vi chủ thương đoàn cập quốc ngoại hoán giao, đặc phẩm”, nghĩa là ba lần bà đi đến các nước để bán những sản phẩm đặc sắc do tay bà làm ra.

Đêm 12/8/1499, bà qua đời ở tuổi 79. Sau đó, năm 1502, ông Đặng Phúc đã khắc những dòng chữ đầy tự hào trên tấm bia mộ của vợ mình “Bùi Thị húy Hý, kỳ tài phu nhân chi mộ”, đặt tại mộ bà ở trang Quang Ánh để khẳng định đức độ, tài năng về văn chương, hội họa, những sản phẩm gốm tinh xảo do đôi bàn tay vàng của bà tạo ra.

Kỳ tài Phu nhân

Nhiều năm trước, các phương tiện thông tin đại chúng trong nước đã đưa tin về việc ở phố cổ Hội An, người ta bán nhiều đồ gốm là cổ vật quý, do ngư dân ở đây tìm được dưới biển Cù Lao Chàm. Nhà nghiên cứu về gốm sứ Trịnh Cao Tường đã được một ngư dân cho xem bộ hiện vật mà anh ta đánh bắt được. Sau đó, ông Trịnh Cao Tường và các đồng nghiệp còn được xem nhiều hiện vật khác.

Theo các chuyên gia khảo cổ, “kiểu dáng và họa tiết trên các đồ gốm vớt được hoàn toàn giống đồ gốm tìm thấy ở Chu Đậu - Hải Dương có niên đại thế kỷ XV – XVI”.

Được sự đồng ý của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, công việc tìm kiếm được tiến hành. Tại Cù Lao Chàm - Quảng Nam, người ta đã phát hiện được xác của 5 con tàu đắm. Sau nhiều năm tiến hành trục vớt, các cơ quan chuyên môn trong, ngoài nước đã trục vớt được khoảng 400.000 đồ sứ còn nguyên vẹn, và nhiều tấn đồ sứ bị vỡ, tương đương với hàng trăm ngàn sản phẩm nữa. Những đồ gốm này có niên đại thế kỷ 15, chúng gồm các dòng gốm: Hoa lam, gốm vẽ nhiều màu, gốm men mầu xanh ngọc, gốm men màu xanh dương sẫm, gốm men trắng, gốm men nâu, gốm men sành; trong đó có một số đồ gốm lần đầu tiên được các nhà khảo cổ tìm thấy như bát hoa lam vẽ rồng.

Chu Đậu

Điều đặc biệt là, hầu hết các sản phẩm này đều có xuất xứ từ Chu Đậu, huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương, và một số ít đồ gốm của Thăng Long. Ngay sau khi trục vớt và bán đấu giá số cổ vật này, đã có 46 bảo tàng danh tiếng trên thế giới sưu tầm và trưng bầy hiện vật gốm cổ của Chu Đậu vì nó “quá kỳ ảo”, nó “đẹp về dáng, sáng về men”, “lung linh huyền ảo"…, nó lại đạt được bốn tiêu chuẩn mà gốm ở nhiều nơi không đạt được, đó là “mỏng như giấy, trong như ngọc, trắng như ngà, kêu như chuông”. Hoa văn trên các sản phẩm đó đều phản ánh chân thực cuộc sống của những người lao động vùng châu thổ sông Hồng ở thế kỷ 15. Đó là sự kế thừa có chọn lọc của gốm Vạn Yên ( Kiếp Bạc ) thời Lý – Trần ở thế kỷ 13 và thế kỷ thứ 14. Đây cũng chính là thời kỳ bà Bùi Thị Hý đã mang truyền thống làm gốm từ thời ông nội Bùi Quốc Hưng khởi dựng từ cuối thế kỷ 14 sang Chu Đậu cùng hai người chồng là Đặng Sĩ và Đặng Phúc xây dựng nên dòng gốm Chu Đậu nổi tiếng ngày nay.

Trước những kết quả về trục vớt đồ gốm sứ này, bà Dessa Goddard, Giám đốc ngành Nghệ thuật Á Châu của nhà bán đấu giá Butterfields tại San Francisco, đã viết bài và cho đăng trên tờ Việt Mercury ra tháng 6/2000 về những đồ gốm Chu Đậu khai quật được ở Cù Lao Chàm – Hội An – Quảng Nam như sau: “Phát hiện này đang trả lại cho Việt Nam một chương của di sản nghệ thuật mà người ta từng nghĩ là đã hoàn toàn biến mất”.

Trước những thông tin sôi động này, nhiều người đã hỏi, chiếc bình gốm hoa lam trưng bày ở viện bảo tàng Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ, với giá bảo hiểm hàng triệu USD, có dòng chữ “Thái Hòa bát niên Nam Sách châu, tượng nhân Bùi Thị Hý bút”, có quan hệ gì với nhau không?

Theo niên giám lịch sử, ta biết “Thái Hòa” là hiệu vua Lê Nhân Tông dùng từ năm 1443 đến năm 1453, “Thái Hòa bát niên” là Thái Hòa năm thứ tám (1450). Đây là chỉ dấu rất quan trọng, giúp ta tìm hiểu sự phát triển của nghề gốm Chu Đậu khi đã có sự đóng góp của đôi bàn tay vàng Bùi Thị Hý. Nó chính là giai đoạn cực thịnh của dòng gốm Chu Đậu, giai đoạn này gắn chặt với sự có mặt và xây dựng nghề gốm của bà Bùi Thị Hý tại quê chồng Chu Đậu.

Trong quá trình đi tìm lịch sử dòng họ Phí, họ Bùi gốc Phí ở Gia Lộc, người viết đã được ông Bùi Đức Lợi, người bảo quản khu đất Gò Lò, nơi có lò gốm từ thời bà Hý, cho đọc lá thư của ông Makoto Anabuky, nguyên là Bí thư thứ hai của Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam. Trong lá thư viết gửi ông Ngô Duy Đông, nguyên Bí thư tỉnh ủy Hải Hưng, ông đã viết “Mười ba chữ Hán nói trên có nghĩa là: năm 1450, một người thợ lò tên là bà (cô) Bùi Thị Hý ở Nam Sách Châu vẽ (hoa văn trên lọ)”. Lời của nhà ngoại giao đã khẳng định một sự thật lịch sử không thể chối cãi, đó là vào năm 1450 đời vua Lê Nhân Tông hiệu Thái Hòa thứ 8 đã có một doanh nhân nữ ở Việt Nam với thương hiệu là Bùi Thị Hý đã làm nên tác phẩm vô giá này.

Không chỉ có một dòng chữ trên chiếc bình cổ ở Thổ Nhĩ Kỳ, mà những dòng chữ trên chiếc đĩa men tìm thấy ở lò cổ cũng viết “Diên Ninh nhất niên, Gia Phúc huyện, Quang Ánh trang, tỷ Bùi Thị Hý, đệ Bùi Khởi tạo”. Dòng chữ ở con Nghê gắn trên bờ đao của mái nhà cổ “Quang Thuận nhất niên, Quang Ánh trang Bùi Thị Hý tạo”…, và đặc biệt con dấu gốm có hai chữ “Vọng Nguyệt” (tên hiệu của Bùi Thị Hý) đã khẳng định: Bùi Thị Hý chính là người đã tạo nên chiếc bình cổ này.

Như vậy, nguồn tư liệu đã đủ căn cứ để khẳng định dòng chữ “Thái Hòa bát niên, Nam Sách châu tượng nhân Bùi Thị Hý bút” trên chiếc bình cổ là của bà Bùi Thị Hý, mà bà Bùi Thị Hý là người con của dòng họ Bùi (gốc Phí) đương đại ở thôn Quang Tiền, xã Đồng Quang, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Bà là người phụ nữ đầu tiên của nước ta đã tạo nên thương hiệu cho dòng gốm sứ Chu Đậu nổi tiếng ngày nay./.

Phí Văn Chiến

顶: 82152踩: 2