* P.V: Thưa ông,ảiPhòngKiểmtrachuyênngànhchỉtrongngàket qua bong da ngoai hang việc triển khai địa điểm kiểm tra chuyên ngành (KTCN) có ý nghĩa thế nào với cơ quan quản lý nhà nước và cộng đồng DN? - Ông Nguyễn Kiên Giang:Việc triển khai địa điểm KTCN có ý nghĩa rất quan trọng đối với cơ quan hải quan nói riêng và các bộ, ngành nói chung, góp phần cụ thể hóa Nghị quyết 19/NĐ-CP về tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia và công văn 7910/VPCP (ngày 2/10/2015) giao cho Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tập trung triển khai KTCN đối với hàng hóa nhập khẩu có ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng trong dịp Tết nguyên đán Bính Thân 2016.
Để triển khai được địa điểm KTCN, ngay từ đầu năm 2015, Hải quan Hải Phòng cùng với cơ quan chức năng đã tiến hành khảo sát đánh giá thực trạng hoạt động XNK nhằm tìm ra các giải pháp giảm thủ tục hành chính, thời gian thông quan hàng hoá, cũng như kịp thời ngăn chặn các hành vi gian lận thương mại, pháp luật XNK. Đến 19/11, Cục Hải quan Hải Phòng thực hiện ký kết quy chế phối hợp với 4 đơn vị: Viện Kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm quốc gia; Quatest 1; Chi cục Kiểm dịch thực vật Vùng I; Cơ quan Thú y Vùng II để tiến tới triển khai chính thức địa điểm KTCN kể từ 1/12. Theo đó, DN sẽ hưởng lợi từ cải cách, giảm được chi phí thời gian, thủ tục hành chính trong quá trình tham gia hoạt động XNK đáng kể so với trước đây. * P.V: Như vâ%3ḅy, khi thực hiê%3ḅn KTCN về mô%3ḅt đầu mối như hiê%3ḅn nay, DN và cơ quan nhà nước được hưởng lợi thế nào về thủ tục và thời gian thông quan hàng hóa XNK so với trước đây, thưa ông? - Ông Nguyễn Kiên Giang:Về phía DN, thủ tục thông quan hàng hóa của DN rút ngắn được 4-5 ngày so với trước đây khi phải thực hiện hàng loạt thủ tục với cơ quan hải quan, cơ quan quản lý chuyên ngành đối với hàng hóa XNK. Nhờ đó, DN tiết giảm được thời gian, chi phí đi lại giữa Hà Nội và Hải Phòng, giảm đáng kể chi phí lưu kho, lưu bãi. Đứng trên phương diện quản lý, cơ quan hải quan và các cơ quan liên quan đã có sự phối hợp trao đổi thông tin chặt chẽ trong việc đánh giá và đưa ra giải pháp giải quyết đối với các trường hợp cụ thể. Ví dụ, tờ khai không đạt chất lượng, tờ khai chưa xuất trình hàng hoá để kiểm tra, tờ khai lô hàng có địa điểm bảo quản hàng hoá không đúng với địa điểm đã đăng ký với cơ quan hải quan và danh sách các DN vi phạm không được mang hàng về bảo quản. Trước đây chưa có sự phối hợp chặt chẽ, chậm trao đổi thông tin giữa các cơ quan chức năng dẫn đến DN vẫn còn vi phạm về việc không mang hàng hoá đến cơ quan KTCN, chậm nộp kết quả KTCN cho cơ quan hải quan, tiêu thụ hàng hoá khi hàng hoá đang trong tình trạng mang hàng về bảo quản… Về phía cơ quan kiểm tra chuyên ngành, trước đây, việc lấy mẫu của các cơ quan KTCN phụ thuộc vào thông báo thời gian lấy mẫu của DN và việc ra thông báo chất lượng lô hàng phụ thuộc vào thời gian tiến hành lấy mẫu, nhanh nhất khoảng 3 ngày kể từ ngày lấy mẫu và trung bình từ 10-15 ngày kể từ ngày lấy mẫu. Nay các bên chủ động trao đổi thông tin, cơ quan KTCN sẽ biết trường hợp nào phải lấy mẫu tại cảng (những lô hàng phân luồng đỏ kiểm tra thực tế hàng hoá, doanh nghiệp thuộc danh sách không được mang hàng về bảo quản) hoặc trường hợp nào được duyệt mang hàng về bảo quản để phối hợp với DN lấy mẫu tại kho, thời gian ra kết quả KTCN nhanh nhất là 2 ngày kể từ ngày lấy mẫu, trung bình 7-10 ngày kể từ ngày lấy mẫu. Cải cách này phù hợp với yêu cầu tại đề án giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động KTCN đối với hàng hóa XNK vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 2026/QĐ-CP (ngày 17/11/2015). Phấn đấu trong năm 2016 thời gian thông quan dưới 10 ngày đối với hàng hóa xuất khẩu, 12 ngày đối với hàng hóa nhập khẩu. * P.V: Để hoạt động của địa điểm KTCN đạt hiệu quả như mong muốn, theo ông thời gian tới cần tiếp tục thực hiện các giải pháp nào? - Ông Nguyễn Kiên Giang:Tôi cho rằng, đây là sự khởi đầu thuận lợi để các bộ, ngành thực hiện cải cách hành chính theo yêu cầu đề ra tại Nghị quyết 19/NĐ-CP. Các cơ quan quản lý chuyên ngành cần triển khai đồng bộ giải pháp quan trọng nêu trong đề án giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động KTCN đối với hàng hóa XNK vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Cụ thể là, các cơ quan quản lý chuyên ngành cần rà soát danh mục hàng hóa cần KTCN để hạn chế những mặt hàng không nhất thiết phải kiểm tra, mã hóa HS (danh mục hàng hóa) để đơn giản hóa thủ tục cho DN. Đồng thời, cơ quan chức năng cần tích cực áp dụng quản lý rủi ro vào công tác kiểm tra, kiểm soát hàng hóa; công nhận kết quả của các nước phát triển; kiểm tra, đánh giá điều kiện của các tổ chức giám định có chức năng để công nhận kết quả (tiền đề cho việc xã hội hóa công tác KTCN), nhằm giảm thiểu thủ tục hành chính, tạo thông thoáng hơn cho hoạt động XNK. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đã có đề nghị lãnh đạo Tổng cục Hải quan quan tâm đầu tư máy móc thiết bị, đào tạo nguồn nhân lực để thực hiện ủy quyền của các cơ quan quản lý chuyên ngành để vừa kiểm tra hải quan vừa KTCN đối với một số mặt hàng có yêu cầu về kỹ thuật và an toàn thực phẩm... * P.V: Xin cảm ơn ông! Hải Anh |