Thứ nhất,àisảncôngđượcchialàmloạti so valenciatài sản công phục vụ hoạt động quản lý, cung cấp dịch vụ công, bảo đảm quốc phòng, an ninh của cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức khác được thành lập theo quy định của pháp luật về hội, trừ tài sản của dự án sử dụng vốn nhà nước (gọi là tài sản công tại cơ quan, tổ chức, đơn vị).
Thứ hai,tài sản kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng là các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật, công trình kết cấu hạ tầng xã hội và vùng đất, vùng nước, vùng biển gắn với các công trình kết cấu hạ tầng, bao gồm: hạ tầng giao thông, hạ tầng cung cấp điện, hạ tầng thủy lợi và ứng phó với biến đổi khí hậu, hạ tầng đô thị, hạ tầng cụm công nghiệp, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao, hạ tầng thương mại, hạ tầng thông tin, hạ tầng giáo dục và đào tạo, hạ tầng khoa học và công nghệ, hạ tầng y tế, hạ tầng văn hóa, hạ tầng thể thao, hạ tầng du lịch và hạ tầng khác theo quy định của pháp luật (sau đây gọi là tài sản kết cấu hạ tầng).
Thứ ba,là tài sản công tại doanh nghiệp.
Thứ tư,tài sản của dự án sử dụng vốn nhà nước.
Thứ năm,tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân theo quy định của pháp luật bao gồm: Tài sản bị tịch thu; tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bỏ quên, tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, bị chìm đắm được tìm thấy, tài sản không có người nhận thừa kế và tài sản khác thuộc về Nhà nước theo quy định của Bộ luật Dân sự; tài sản do chủ sở hữu tự nguyện chuyển giao quyền sở hữu cho Nhà nước; tài sản do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn cho Nhà nước Việt Nam theo cam kết sau khi kết thúc thời hạn hoạt động; tài sản được đầu tư theo hình thức đối tác công - tư được chuyển giao cho Nhà nước Việt Nam theo hợp đồng dự án;
Thứ sáu,tiền thuộc ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách và dự trữ ngoại hối nhà nước.
Thứ bảy,là đất đai; tài nguyên nước, tài nguyên rừng, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, kho số viễn thông và kho số khác phục vụ quản lý nhà nước, tài nguyên Internet, phổ tần số vô tuyến điện, quỹ đạo vệ tinh và các tài nguyên khác do Nhà nước quản lý theo quy định của pháp luật.
Về quy định tài sản công là tài sản tại doanh nghiệp và tài sản của dự án sử dụng vốn nhà nước thuộc tài sản công, trước đó khi Quốc hội thảo luận có ý kiến cho rằng, tài sản đã giao vốn cho doanh nghiệp là tài sản của doanh nghiệp.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã giải trình cụ thể về vấn đề này trước khi Luật được thông quan.
Theo đó, tài sản Nhà nước giao cho doanh nghiệp là tài sản của Nhà nước tại doanh nghiệp, tất cả tài sản của DNNN là của Nhà nước. Tuy nhiên, để quy định chế độ quản lý, sử dụng tài sản công phù hợp với hình thức giao cho doanh nghiệp quản lý, sử dụng, khai thác, dự thảo Luật trước đó quy định tài sản công tại doanh nghiệp gồm 2 nhóm: Thứ nhất, là tài sản công được tính thành vốn nhà nước tại doanh nghiệp được điều chỉnh bởi Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp. Thứ hai, tài sản công Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý nhưng không tính thành vốn nhà nước tại doanh nghiệp (như các vùng thông báo bay giao Tổng công ty quản lý bay,…) được điều chỉnh bởi Luật này và pháp luật có liên quan.
Để tránh cách hiểu khác nhau, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội và đã bỏ cụm từ “phục vụ sản xuất, kinh doanh” tại khoản 1 Điều 3, khoản 3 Điều 4 và Chương V của Dự án Luật.
Luật Quản lý và sử dụng tài sản công chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2018.
Luật quy định: "Tài sản công là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, bao gồm: tài sản công phục vụ hoạt động quản lý, cung cấp dịch vụ công, bảo đảm quốc phòng, an ninh tại cơ quan, tổ chức, đơn vị; tài sản kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân; tài sản công tại doanh nghiệp; tiền thuộc ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách dự trữ ngoại hối nhà nước; đất đai và các loại tài nguyên khác. Nguồn lực tài chính từ tài sản công là tổng hợp các khả năng có thể khai thác được từ tài sản công thông qua các hình thức theo quy định của pháp luật nhằm tạo lập nguồn tài chính phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh". |