【bang xep hang hang 2 tbn】Tín dụng cho nông nghiệp: Bất cập chất chồng

tin dung cho nong nghiep bat cap chat chong

Thủ tục tiếp cận vốn vay trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn được đánh giá khá rườm rà,índụngchonôngnghiệpBấtcậpchấtchồbang xep hang hang 2 tbn khó khăn. Ảnh: Nguyễn Thanh

Thời hạn vay không hợp chu kỳ sản xuất

Phát biểu tại Diễn đàn “Chính sách tín dụng nông nghiệp và nông thôn-thực trạng và giải pháp” diễn ra sáng nay (29-9), tại Hà Nội, ông Lê Đức Thịnh, Phó Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT) cho biết: Mặc dù các hợp tác xã được thúc đẩy phát triển theo hướng là “bà đỡ” cho người nông dân, song do nhiều lý do, suốt thời gian qua việc tiếp cận nguồn vốn từ các ngân hàng của các hợp tác xã khá hạn chế.

Trong năm 2015, chỉ có 0,67% trên tổng số 11.000 hợp tác xã trên cả nước tiếp cận được nguồn tín dụng. Hiện nay, cơ cấu vốn vay của các ngân hàng thương mại chưa thực sự phù hợp cho khu vực nông nghiệp nông thôn, tỷ trọng vốn tín dụng nông nghiệp, nông thôn vẫn rất thấp. Tổng dư nợ tín dụng nông nghiệp, nông thôn tính đến tháng 6-2016 đạt 886 tỷ đồng, chiếm 18% tổng dư nợ nền kinh tế.

Bàn sâu hơn về những bất cập trong chính sách tín dụng nông nghiệp, nông thôn hiện nay, một số chuyên gia cho rằng, thời hạn và mức vay vốn không phù hợp với chu kỳ sản xuất. Khác với sản xuất công nghiệp, mỗi sản phẩm nông sản có những chu kỳ sản xuất khác nhau (như cây ngắn ngày và cây lâu năm). Mặt khác, sản xuất nông nghiệp cần chu kỳ đầu tư dài hạn (xây dựng chuồng trại, xây dựng cơ sở hạ tầng sản xuất: đường giao thông, hệ thống điện, nước,…).

Tuy nhiên, các tổ chức tín dụng thường đưa ra các thời hạn vay “cứng” là 6 tháng, 12 tháng, 24 tháng hoặc 36 tháng, và vẫn chủ yếu cung cấp tín dụng ngắn hạn (12 tháng). Rõ ràng thời hạn vay vốn này không phù hợp với chu kỳ sản xuất nông nghiệp, tạo ra rào cản cho các khách hàng khi tiếp cận tín dụng.

Về vấn đề này, ông Lê Bá Lịch, Chủ tịch Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam đưa ra dẫn chứng cụ thể như vay vốn trồng cà phê phải 3 năm; nuôi lợn nái phải 1,5 năm; nuôi bò thịt phải 3 năm mới cho thu hoạch. Trong khi đó, các ngân hàng cho nông dân vay vốn đầu tư lại thường chỉ trong vòng 6 tháng, 12 tháng thì không giải quyết được vấn đề. Trong khi nhiều nước trên thế giới hiện vẫn đang áp dụng cho vay theo vòng đời sản xuất của các loại cây trồng, vật nuôi...

Ông Lịch cũng nhấn mạnh: Việc vay vốn của nông dân vẫn gặp nhiều khó khăn về thủ tục và điều kiện vay vốn, không chỉ đối với người nghèo mà ngay cả đối với các trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ khi các tổ chức tín dụng yêu cầu phải có tài sản để thế chấp.

Thực tế hiện nay, đối tượng vay vốn, đặc biệt là các hợp tác xã nông nghiệp phần lớn đều không có tài sản thế chấp (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tài sản khác…). Các trang trại thì hoặc chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hoặc là chưa được cấp chứng chỉ trang trại. Ngoài ra, tài sản trên đất của (nhà xưởng), tài sản hình thành từ vốn vay, dự án đầu tư, hợp đồng hợp tác, hợp đồng bảo hiểm,… của trang trại, doanh nghiệp và hợp tác xã lại chưa được coi là tài sản thế chấp khi vay vốn.

Thiếu sự đồng bộ

Theo ông Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và Chính sách (VEPR), ngoài các bất cập nêu trên: Để phát triển hệ thống tín dụng nông nghiệp, nông thôn thì hệ thống chính sách tín dụng khu vực này cần phải được tích hợp đồng bộ với các hệ thống chính sách khác có liên quan như chính sách bảo hiểm, vốn hóa đất, lao động, đầu tư… Tuy nhiên, hiện nay vấn đề này ở Việt Nam còn hạn chế và chưa được thực hiện đồng bộ.

Chẳng hạn, với chính sách bảo hiểm, hệ thống tín dụng cần tích hợp với chính sách bảo hiểm nông nghiệp bằng cách coi giá trị bảo hiểm là tài sản thế chấp để có thể vay vốn ngân hàng. Với chính sách vốn hóa đất, đặc biệt là khu vực đất nông nghiệp, hệ thống tín dụng cần xác định theo giá thị trường để làm căn cứ cho vay vốn (thay vì chỉ xác định chỉ cho vay không vượt quá 70% giá trị tài sản bảo đảm tiền vay, là giá trị đất theo khung giá đất nông nghiệp do UBND tỉnh quy định).

Để thúc đẩy tín dụng nông nghiệp trong thời gian tới, theo ông Thịnh hàng loạt vướng mắc, bất cập cần từng bước được tháo gỡ. Cụ thể, các tổ chức tín dụng cần nghiên cứu cung cấp các khoản vốn vay kịp thời, phù hợp với nhu cầu vốn (về hạn mức vay vốn), phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của từng loại sản phẩm nông nghiệp.

Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng cần xem xét các điều kiện khác có thể đảm bảo thế chấp để vay vốn như: Tài sản trên đất, tài sản hình thành từ vốn vay, dự án đầu tư…

“Tôi cho rằng, một trong những giải pháp quan trọng còn là tiếp tục điều chỉnh cơ cấu vốn ngân hàng thương mại, ưu tiên cho nông nghiệp, nông thôn. Chính phủ xây dựng các chương trình cho vay đầu tư nông nghiệp trung và dài hạn, ủy thác vốn của các chương trình cho các ngân hàng thương mại tham gia. Chính phủ hỗ trợ một phần lãi suất và phí thực hiện giải ngân, đồng thời tăng cường hỗ trợ và phát triển bảo hiểm nông nghiệp đối với một số nông sản chủ lực trong các vùng sản xuất hàng hóa tập trung”, ông Thịnh nhấn mạnh.

Một số quan điểm cho rằng, phát triển tín dụng phi chính thức (gồm cho vay vốn thông qua các tổ chức như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân,…) nhằm bổ sung vào mảng khuyết của hệ thống tín dụng chính thức cũng là giải pháp khả thi cần tính đến. Kinh nghiệm nhiều chương trình tín dụng nông thôn trên thế giới đã thành công nhờ biết phối hợp cả hai khu vực chính thức và phi chính thức trong việc cung cấp dịch vụ tài chính cho nông thôn.

World Cup
上一篇:Ngày 25/3 sẽ khôi phục dung lượng Internet qua cáp Liên Á
下一篇:Apple điều tra sự cố iPhone 7 Plus cùng phát nổ giống Note 7