(CMO) Ngày nay, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), thuốc diệt cỏ trong sản xuất nông nghiệp, trồng hoa màu, cây ăn trái… đã trở thành phổ biến, bởi sự tiện ích và hiệu quả nhanh để có thể thu hoạch một vụ mùa bội thu. Tuy nhiên, chính việc lạm dụng quá mức và thiếu kiểm soát trong quá trình sử dụng các loại thuốc BVTV đã gây nên sự ô nhiễm môi trường do tồn lưu hóa chất BVTV đang ngày càng nghiêm trọng hơn, làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của người dân nói chung và người tiêu dùng nói riêng.
Ông Phạm Văn Hưng, Phó Chi cục trưởng Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh, cho biết: “Những hợp chất hữu cơ độc hại đứng đầu danh sách 12 loại độc chất nguy hiểm, rất bền trong môi trường nên rất khó phân hủy sinh học, trong đó chủ yếu là các loại hóa chất thuộc nhóm POPs như: DDT, 666, Aldrin...”. Rõ ràng, những loại hóa chất này có thể theo nguồn nước mưa, nước tưới rau màu lâu ngày sẽ ngấm sâu vào nguồn nước sinh hoạt, hoặc tiềm ẩn trong không khí, thức ăn, nước uống, là một trong những tác nhân gây ung thư điển hình hiện nay trong cộng đồng.
Ở Cà Mau hiện nay có nhiều vùng trọng điểm sản xuất rau màu thời vụ với hằng trăm hécta, phục vụ phần lớn cho nhu cầu tiêu dùng của người dân địa phương, điển hình như: xã Lý Văn Lâm (TP Cà Mau); các xã Trần Hợi, Khánh Bình Tây, Khánh Lộc (huyện Trần Văn Thời)…
Vùng trọng điểm hoa màu xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời. |
Trong số các địa phương đang phải gánh chịu “hậu họa” do tồn dư thuốc BVTV này, nhiều nhất là ấp Cơi 6A, xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời. Nơi đây có nhiều điểm tồn lưu thuốc BVTV nhất, với nhiều điểm bị ô nhiễm nghiêm trọng, dẫn đến tỷ lệ người bị mắc các căn bệnh ung thư ở đây cũng cao hơn so với những nơi khác.
“Việc xử lý dứt điểm ô nhiễm môi trường do tồn lưu thuốc BVTV rất phức tạp, yêu cầu về mặt kỹ thuật xử lý rất cao và đòi hỏi phải có nguồn kinh phí rất lớn”, ông Phạm Văn Hưng cho biết thêm.
Trên thực tế ai cũng biết, hóa chất trừ cỏ không chỉ độc hại cho môi trường mà nó còn độc hại cho con người thông qua đường tiếp xúc trực tiếp hoặc qua tồn dư trong các sản phẩm nông nghiệp (lúa, rau củ, cây ăn trái). Thế nhưng, vì lợi nhuận, vì sự tiện ích nên nhiều người vẫn không ngần ngại sử dụng một cách vô tội vạ các loại hóa chất độc hại này. Thậm chí trong quá trình sử dụng, người sản xuất còn không để có thời gian cho thuốc được phân hủy theo khuyến cáo của ngành chuyên môn, mà chỉ sau 1 hoặc 2 ngày dử dụng thuốc là đã thu hoạch và cung ứng ra thị trường. Đây chính là một trong những ẩn họa lớn nhất khiến cho tỷ lệ ung thư từ các loại thuốc BVTV đang ngày càng nhiều hơn.
Theo TS. Bác sĩ Tô Minh Nghị, Phó giám đốc Bệnh viện Đa khoa Cà Mau: “Bản chất của thuốc BVTV chính là hợp chất độc hại. Do đó, dư lượng hóa chất từ thuốc BVTV có thể gây ngộ độc cấp tính hoặc mạn tính, cũng như mối nguy hại tiềm tàng dẫn đến những căn bệnh hiểm nghèo cho người tiếp xúc và sử dụng chúng. Thuốc BVTV thường thẩm thấu qua lỗ chân lông ngoài da; xâm nhập qua thức ăn vào thực quản, rồi sau đó là đi vào khí quản thông qua đường hô hấp của con người”.
Đoàn cán bộ kiểm tra việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp của một nông dân ở huyện Trần Văn Thời. |
Hiện nay, việc phun thuốc BVTV của nông dân trong tỉnh vẫn còn là công việc được tiến hành trực tiếp bởi nhà nông làm bằng hình thức thủ công, việc hỗ trợ bằng công nghệ hiện đại (phun bằng máy bay không người lái) vẫn chưa được phổ biến. Theo thời gian lâu dài có thể gây tích tụ độc trong cơ thể, dẫn đến ảnh hưởng lớn đối với sức khỏe của trực tiếp tiếp xúc với chúng. Các hội chứng bệnh lý khi nhiễm hóa chất BVTV như: Gây rối loạn thần kinh trung ương, nhức đầu, giảm trí nhớ, gây mất ngủ. Ở mức độ nặng hơn có thể gây tê liệt thần kinh, tổn thương não bộ và nhiễm độc não. Con người khi tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với thuốc BVTV đều có khả năng mắc phải bệnh trầm cảm. Ngoài ra, phụ nữ mang thai khi tiếp xúc với thuốc làm ảnh hưởng sự phát triển thai nhi, cấu trúc não xuất hiện bất thường; trẻ em có khả năng bị rối loạn chức năng não, rối loạn tâm thần, tự kỷ, tâm lý chậm phát triểm và mắc các chứng rối loạn thần kinh khác.
Vì vậy, để bảo vệ sức khỏe cho người tiêu dùng, đòi hỏi người dân cần quan tâm và phải thật sự có trách nhiệm nhiều hơn nữa trong việc kiểm soát lượng tồn dư thuốc BVTV để nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm, hàng hóa và vì sức khỏe của cộng đồng./.
Phương Vũ