您现在的位置是:Ngoại Hạng Anh >>正文

【tỷ số và tỷ lệ châu á】Gỡ vướng về ưu đãi cho doanh nghiệp đi thuê đất

Ngoại Hạng Anh499人已围观

简介Thực tế triển khai NĐ46 đang phát sinh nhiều vướng mắc về giải quyết ưu đãi, miễn, giảm tiền thuê đấ ...

trang 6

Thực tế triển khai NĐ46 đang phát sinh nhiều vướng mắc về giải quyết ưu đãi,ỡvướngvềưuđãichodoanhnghiệpđithuêđấtỷ số và tỷ lệ châu á miễn, giảm tiền thuê đất.

Để khắc phục tình trạng này đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng đất, Bộ Tài chính đang trình Chính phủ sửa đổi quy định để gỡ vướng cho các doanh nghiệp đi thuê đất.

31 địa phương gặp khó trong xét miễn, giảm tiền thuê đất

Theo quy định tại NĐ 46, người được Nhà nước cho thuê đất chỉ được hưởng ưu đãi miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước sau khi đã làm các thủ tục để được miễn, giảm theo quy định và chỉ được miễn, giảm cho thời gian thuê đất còn lại tính từ thời điểm nộp đủ hồ sơ theo quy định.

Tuy nhiên, theo phản ánh từ thực tế tại các địa phương, khi thực hiện quy định nêu trên đã phát sinh 2 trường hợp vướng mắc về miễn tiền thuê đất theo pháp luật về ưu đãi đầu tư.

Trường hợp thứ nhất là đối tượng được Nhà nước cho thuê đất trước ngày 1/7/2014 mà tại Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư hoặc Giấy phép đầu tư có ghi cụ thể mức ưu đãi miễn, giảm tiền thuê đất nhưng sau ngày 1/7/2014 mới nộp hồ sơ miễn, giảm tiền thuê đất.

Trường hợp thứ hai là đối tượng được Nhà nước cho thuê đất trước ngày 1/7/2014 nhưng tại Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư hoặc Giấy phép đầu tư không ghi ưu đãi miễn, giảm tiền thuê đất hoặc không ghi cụ thể mức ưu đãi.

Trong khi đó, theo quy định của pháp luật về thu tiền thuê đất trước ngày 1/7/2014 (Nghị định số 142/2005/NĐ-CP và các Thông tư số 120/2005/TT-BTC; Thông tư số 141/2007/TT-BTC, Thông tư số 156/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính), để được miễn, giảm tiền thuê đất, người được Nhà nước cho thuê đất phải kê khai, làm thủ tục để được hưởng ưu đãi miễn, giảm tiền thuê đất. Quy định này là cần thiết, nhằm quản lý, theo dõi số tiền thuê đất được miễn, giảm cũng như cơ quan thuế chủ động, kịp thời trong việc ra thông báo nộp tiền thuê đất khi hết thời gian được ưu đãi.

Tuy nhiên, trên thực tế nhiều trường hợp mặc dù ưu đãi miễn, giảm tiền thuê đất đã được ghi cụ thể tại loại giấy phép, nhưng do chủ đầu tư thiếu sự quan tâm hoặc không nắm bắt được đầy đủ quy định của Nhà nước về thủ tục hành chính nên đã không làm thủ tục để được miễn, giảm tiền thuê đất theo quy định. Đối với những trường hợp này, cơ quan thuế, tài chính không nắm được để theo dõi, đôn đốc vì tổ chức không kê khai làm theo thủ tục để xác định và thu nộp tiền thuê đất và bản thân người được Nhà nước cho thuê đất cũng cho rằng mình được ưu đãi miễn, giảm tiền thuê đất, trong khi đó hồ sơ về đất do cơ quan tài nguyên và môi trường quản lý nên cơ quan thuế không nắm được thông tin về việc này.

Theo Bộ Tài chính, trong khi thực hiện các quy định về miễn, giảm tiền thuê đất cho 2 trường hợp này đã có một số người được Nhà nước cho thuê đất khiếu nại vì không được xét miễn tiền thuê đất do đã quá thời gian được miễn tiền thuê đất; hoặc thời gian còn lại được miễn ít hơn nhiều so với thời gian được hưởng theo Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư hoặc Giấy phép đầu tư hoặc theo pháp luật về đất đai. Hiện tại có 31 địa phương đang gặp khó về vấn đề này.

Được hưởng đầy đủ ưu đãi khi nộp hồ sơ đề nghị miễn, giảm

Để khắc phục tình trạng trên và cải cách thủ tục hành chính giúp cơ quan thuế chủ động trong việc xác định và thông báo tiền thuê đất cho người sử dụng đất khi đến hạn phải điều chỉnh đơn giá thuê đất cũng như khi đến hạn phải nộp tiền thuê đất sau thời gian được miễn, giảm được kịp thời (tránh người sử dụng đất phải đến kê khai như trước đây), Bộ Tài chính cho rằng, quy định tại NĐ 46, người thuê đất, thuê mặt nước chỉ được hưởng ưu đãi miễn, giảm tiền thuê sau khi làm các thủ tục để được miễn, giảm là cần thiết, vì không phải trường hợp nào cũng phải cấp Giấy phép đầu tư; nên nếu không làm thủ tục thì những trường hợp không có Giấy phép đầu tư sẽ không biết được số năm được miễn, giảm tiền thuê đất được hưởng theo quy định của pháp luật.

Do đó, về nguyên tắc, đối với dự án đang hoạt động, đã được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, Giấy phép đầu tư hoặc thuộc trường hợp không phải cấp phép đầu tư, theo đúng quy định của pháp luật về đầu tư trước ngày NĐ 46 có hiệu lực thi hành, mà giấy có ghi mức ưu đãi miễn, giảm tiền thuê đất, hoặc không thuộc trường hợp phải cấp phép đầu tư mà pháp luật tại thời điểm được Nhà nước cho thuê đất có quy định về ưu đãi miễn, giảm tiền thuê đất (nhưng chưa được hưởng ưu đãi do chưa làm thủ tục) thì chỉ được tiếp tục được hưởng ưu đãi miễn, giảm tiền thuê đất cho thời gian ưu đãi còn lại tính từ thời điểm nộp đủ hồ sơ hợp lệ. Bên cạnh đó, cũng có trường hợp sau khi nắm được quy định về thủ tục hành chính, thực hiện nộp hồ sơ hợp lệ để được hưởng ưu đãi về miễn, giảm tiền thuê đất thì đã hết thời gian được ưu đãi đã ghi trên Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, Giấy phép đầu tư.

Với vướng mắc này, Bộ Tài chính cho rằng, một mặt có nguyên nhân từ phía người thuê đất không tìm hiểu kỹ quy định của pháp luật, nhưng mặt khác pháp luật trước ngày 1/7/2014 có quy định chưa rõ về thời gian phải nộp hồ sơ miễn, giảm tiền thuê đất.

Để tháo gỡ vướng mắc và trên cơ sở tổng hợp ý kiến của các địa phương, Bộ Tài chính đang trình Chính phủ quy định các trường hợp nêu trên được hưởng đầy đủ các mức ưu đãi về miễn tiền thuê đất theo quy định của pháp luật nhưng người thuê đất phải nộp hồ sơ đề nghị cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục miễn, giảm tiền thuê đất trước ngày 30/6/2016, quá thời hạn này mà người thuê đất không nộp hồ sơ đề nghị thì chỉ được xét cho thời gian miễn, giảm còn lại (nếu có) tính từ thời điểm nộp hồ sơ đề nghị.

Vân Hà

Tags:

相关文章