Hàng tồn kho cao
Công nghiệp chế biến là ngành mang lại nhiều giá trị gia tăng nhưng lại là ngành đang gặp nhiều khó khăn nhất. Theệpđếnngưỡngkhókhăkết quả trận đấu tối nayo số liệu của Bộ Công Thương, chỉ số sản xuất 3 tháng đầu năm của ngành này thấp hơn nhiều so với mức tăng 13,4% của cùng kỳ năm trước. Trong số 32 nhóm hàng công nghiệp chế biến chính thì có đến 18 nhóm hàng có chỉ số sản xuất giảm như: Xi măng, sắt thép, sợi và dệt vải, giày dép, giấy nhăn, bao bì, bột giấy, giấy, bìa, phân bón và hợp chất nitơ, sản xuất các sản phẩm khác từ plastic, xe có động cơ, bàn ghế, giường tủ, đồ uống không cồn, cáp điện và dây điện, các thiết bị gia đình...
Một trong những nguyên nhân làm cho chỉ số công nghiệp giảm là do tiêu thụ sụt giảm và mức tồn của nhiều mặt hàng tăng cao.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Nam Hải cho biết, chỉ số tiêu thụ những nhóm hàng sản xuất giảm mạnh, giảm 15% so với cùng kỳ: Đồ uống không cồn, giấy nhăn và bao bì, sắt thép, xi măng, các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, dây điện và cáp điện, bàn ghế giường tủ. Bên cạnh đó, lượng tồn kho của nhiều mặt hàng tăng cao như phân bón và hợp chất ni tơ tăng 62,7%; sắt, thép tăng 59,1%; bia và mạch nha tăng 48%; cáp điện và dây điện có bọc cách điện tăng 29%; sợi và dệt vải tăng 6,6%; đồ uống không cồn tăng 11%...
Theo lý giải của một số DN, giá cả vật tư, nhiên liệu, nguyên liệu đầu vào biến động khá nhiều như xăng dầu, điện, khí đốt... nhưng không thể chuyển vào giá bán nên phần lớn những chi phí này DN phải gánh chịu.
Đồng tình với quan điểm này, ông Nguyễn Thanh Hòa, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch (Bộ Công Thương) cho biết, do quý I-2012 thời gian nghỉ Tết dài, nhu cầu tiêu thụ hàng công nghiệp chế biến trong nước giảm; tiêu thụ vật liệu xây dựng giảm do ảnh hưởng của thị trường bất động sản trầm lắng; thị trường thế giới gặp khó khăn... Bên cạnh đó, xu hướng thắt chặt chi tiêu xuất hiện ở nhiều người dân đã tác động tiêu cực đến hệ thống sản xuất và phân phối sản phẩm. Đáng báo động là chỉ số hàng tồn kho liên tục tăng cao trong nhiều tháng nay, đặc biệt là nhóm hàng công nghệ chế biến tăng 34,9%. Điều này chứng tỏ thị trường hàng hóa đang bị tắc nghẽn, sản xuất ra không bán được. Đặc biệt, năng lực sản xuất kinh doanh của các DN sản xuất và phân phối hàng hóa phụ thuộc rất nhiều vào vốn, trong khi lãi suất ngân hàng vẫn cao, DN khó tiếp cận.
“Gỡ” khó cho DN
Theo Thứ trưởng Nguyễn Nam Hải, Chính phủ và các bộ, ngành đã thấy rõ vấn đề khó khăn lớn nhất của các DN hiện nay là lãi suất cao và khả năng tiếp cận vốn. Điều quan trọng là phải có giải pháp để làm lành mạnh thị trường ngân hàng, giảm lãi suất, tạo điều kiện cho DN tiếp cận vốn tốt hơn.
Để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, nhất là việc tiêu thụ hàng hóa trong nước và XK của những tháng tiếp theo, Bộ Công Thương sẽ tăng cường cập nhật tình hình diễn biến giá cả, tiến độ XK các mặt hàng, những biến động của thị trường thế giới để kịp thời có các biện pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho DN và người dân, thực hiện tốt việc mua tạm trữ hàng hoá để giữ giá XK, hỗ trợ DN về vốn, đáo hạn ngân hàng. Bên cạnh đó, triển khai thực hiện tốt chương trình xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn 1 nhằm tìm kiếm, mở rộng, khai thông thị trường đối với các mặt hàng nông sản, thuỷ sản và các mặt hàng công nghiệp XK.
Trong điều kiện thị trường XK gặp khó khăn, Thứ trưởng Nguyễn Nam Hải cho rằng, tiêu thụ trong nước tiếp tục là yếu tố kích thích sản xuất trong nước phát triển. Do vậy, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục triển khai mạnh chương trình xúc tiến thương mại nội địa, trọng tâm là việc tổ chức các đợt bán hàng về khu vực nông thôn và các khu công nghiệp; phát triển mạng lưới phân phối, mở rộng hệ thống bán lẻ hàng hóa, dịch vụ; thực hiện các hoạt động triển khai chương trình “người Việt ưu tiên dùng hàng Việt”.
Phan Thu