Dư địa lớn từ thị trường tiềm năng
Trung Đông (bao gồm 16 quốc gia) đang nổi lên như khối thị trường xuất khẩu tiềm năng với dân số đông (khoảng 400 triệu dân) và mức sống cao. Trong khi đó,vàngket qua bdn quan hệ thương mại của Việt Nam với khu vực này chủ yếu tập trung vào các quốc gia thuộc Hội đồng hợp tác Vùng Vịnh (GCC) gồm 6 quốc gia thành viên là Các tiểu Vương quốc Ả rập thống nhất (UAE), Arab Saudi (Ả rập Xê út), Kuwait (Cô-oét), Bahrain (Ba-ranh), Qatar (Ca-ta) và Oman (Ô-man), với tổng dân số 65 triệu người.
Doanh nghiệp tìm hiểu thông tin kinh doanh về thị trường các nước khu vực Trung Đông. |
Đây là 6 quốc gia có nền kinh tế mở, phát triển ngoại thương, thu hút đầu tư nước ngoài, du lịch, dịch vụ, đa dạng hóa nền kinh tế, thúc đẩy xuất nhập khẩu. GDP bình quân đầu người ở mức cao, từ 22.000 USD đến 60.000 USD/năm. Từ tháng 1/2003, các nước thành viên GCC đã thực hiện Liên minh thuế quan (CU) và thống nhất áp dụng biểu thuế nhập khẩu chung có mức thuế khoảng 5%, áp dụng trong toàn khu vực đối với hầu hết các sản phẩm.
Hiện tại, cả 6 nước GCC đều là thành viên WTO. Rào cản thương mại tại thị trường các nước này là việc yêu cầu giấy chứng nhận về tiêu chuẩn, kiểm định chất lượng, nhãn mác... do Tổ chức Tiêu chuẩn và Đo lường vùng Vịnh (GSMO) cấp, giấy chứng nhận Halal đối với các sản phẩm thực phẩm, thủy sản nhập khẩu. Trong vài năm gần đây, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang các nước GCC gia tăng nhanh chóng và có mức tăng đột biến từ năm 2012 đến nay. Nếu như năm 2012, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang các nước GCC mới đạt 2,7 tỷ USD, thì tới năm 2021 đã tăng gấp 4,6 lần, đạt 12,5 tỷ USD.
Nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp Việt
Ông Ngô Toàn Thắng - Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Kuwait cho biết, cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường GCC đang rộng mở với nhiều thuận lợi. Cụ thể, Việt Nam có quan hệ ngoại giao, quan hệ hợp tác truyền thống hữu nghị lâu dài với các nước GCC.
Bên cạnh đó, hai bên có khuôn khổ pháp lý khá đầy đủ cho việc phát triển và tăng cường quan hệ hợp tác bởi đã ký các hiệp định hợp tác kinh tế, thương mại và khoa học kỹ thuật với 5/6 nước, ký hiệp định thương mại 2/6 nước; hiệp định tránh đánh thuế hai lần với 5/6 nước; hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 4/6 nước; hiệp định về vận chuyển hàng không với 5/6 nước; thành lập Ủy ban liên Chính phủ/Ủy ban hỗn hợp với 5/6 nước.
Ngoài ra, doanh nghiệp Việt Nam còn được hỗ trợ bởi mạng lưới cơ quan đại diện ngoại giao làm cầu nối thúc đẩy trao đổi thương mại và hợp tác gồm: 4 đại sứ quán và 3 thương vụ tại GCC, 5 đại sứ quán các nước GCC tại Việt Nam. Trong khi đó, khối GCC có sức mua lớn, khả năng thanh toán cao do có nguồn tài chính dồi dào. Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu của GCC khá phù hợp với những mặt hàng xuất khẩu thế mạnh và nhu cầu của Việt Nam, thuế nhập khẩu của khối GCC cũng khá thấp.
Theo ông Nguyễn Tuấn - Phó Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh, các quốc gia Trung Đông có nhu cầu nhập khẩu rất lớn (từ 2 - 8 tỷ USD) đối với các mặt hàng như đồ gỗ, sản phẩm nhựa, ngũ cốc, dệt may, giày dép, cao su và sản phẩm cao su, thịt, sữa và sản phẩm sữa, rau quả các loại… Đây là những mặt hàng thế mạnh của Việt Nam. Tuy nhiên tỷ trọng các mặt hàng này của Việt Nam trong cơ cấu hàng nhập khẩu của các nước Trung Đông vẫn còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng hai bên.
Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp của khu vực Trung Đông còn chưa phát triển do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, nên vẫn phải nhập khẩu nhiều thực phẩm, hàng tiêu dùng. Thống kê cho thấy, các quốc gia này nhập khẩu khoảng 80% các mặt hàng lương thực, thực phẩm, tương đương khoảng 40 tỷ USD/năm và dự kiến tăng lên khoảng 70 tỷ USD vào năm 2035.
Cần phải có chứng chỉ Halal
Chia sẻ tại hội thảo “Cơ hội vàng cho xuất khẩu Việt đến các quốc gia Trung Đông sau đại dịch Covid-19” vừa diễn ra tại TP. Hồ Chí Minh, bà Nguyễn Thị Ngọc Hằng - Giám đốc Marketing Văn phòng chứng nhận Halal - HCA Việt Nam cho biết, để có thể thâm nhập thị trường các nước khu vực Trung Đông, sản phẩm của doanh nghiệp Việt phải có được chứng nhận Halal (là sản phẩm mà người Hồi giáo được phép ăn uống, hoặc sử dụng và người Hồi giáo chỉ sử dụng các sản phẩm Halal).
Lợi ích của chứng chỉ Halal là vô cùng lớn, bởi giúp doanh nghiệp đáp ứng được các yêu cầu khi xuất khẩu vào các quốc gia Hồi giáo; được người Hồi giáo tin tưởng mua, sử dụng mà không phải do dự; tạo lòng tin cho người tiêu dùng, kể cả người không theo đạo Hồi lựa chọn vì đáp ứng cả các yêu cầu về kiểm soát chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm; giúp doanh nghiệp tăng cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng nguyên liệu và sản phẩm Halal toàn cầu...
“Để sản phẩm được chứng nhận Halal, doanh nghiệp cần đáp ứng được 2 điều kiện về nguyên liệu và dây chuyền sản xuất. Quy trình chứng nhận Halal gồm 5 bước: Tiếp nhận yêu cầu chứng nhận; báo giá và ký hợp đồng chứng nhận; đánh giá giai đoạn 1 - đánh giá hồ sơ; đánh giá giai đoạn 2 - đánh giá hiện trường và cuối cùng là thẩm xét hồ sơ để cấp chứng chỉ Halal. Doanh nghiệp nên chọn những tổ chức chứng nhận Halal uy tín, được cấp phép và đảm bảo các tiêu chuẩn như: là tổ chức Hồi giáo, tổ chức chứng nhận, được công nhận tại các thị trường xuất khẩu đặc biệt…” - bà Hằng khuyến nghị.