Tuy nhiên nó cũng đang dần trở nên quan trọng hơn trong hoạt động đầu tư và thương mại,ếudữliệuđểkiểmsoátrủirotíndụngdoanhnghiệgangwon fc nhất là trong bối cảnh Việt Nam đón nhận ngày càng nhiều nhà đầu tư nước ngoài đến hợp tác với các doanh nghiệp (DN). Khó áp dụng mô hình quản lý rủi ro Theo ông Nguyễn Quang Thuân, Tổng giám đốc Công ty cổ phần StoxPlus, rủi ro tín dụng không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng mà còn đang được ứng dụng cho các hoạt động thương mại và đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Khác với các đơn vị cho vay như ngân hàng, các nhà đầu tư và DN thương mại thường gặp khó khăn khi tiếp cận thông tin tin cậy về đối tác của họ. Rủi ro tín dụng thương mại hay rủi ro đối tác có ảnh hưởng lớn đến mức độ lợi nhuận của DN. “Nếu biên độ lợi nhuận của công ty bạn là 5% và một trong số những khách hàng không có khả năng trả 100.000 USD nợ, thì bạn phải tạo ra thêm 2.000.000 USD doanh thu để bù cho lợi nhuận bị mất”, ông Nguyễn Quang Thuân nêu ví dụ. Hiện nay, mỗi năm Việt Nam có hàng chục nghìn công ty tuyên bố giải thể, ngừng hoạt động hoặc phá sản. Xu thế này đang tăng trong những năm gần đây. Tuy vậy, đây mới chỉ là bề nổi, con số thực tế có thể cao hơn. Theo đánh giá, nhiều DN trong số đó có thể rơi vào tình huống này nhưng họ đã không tiến hành nộp đơn theo yêu cầu quy định vì nhiều lý do. Không chỉ các DN siêu nhỏ, mà còn các công ty vừa và lớn, đặc biệt là trong thời kỳ suy thoái kinh tế. Để đánh giá rủi ro, các hệ thống hoặc mô hình quản trị rủi ro sẽ cần dữ liệu tin cậy nhất để xử lý. Tuy nhiên, vấn đề là hệ thống thông tin DN tại Việt Nam vẫn đang phân mảnh và khá nghèo nàn về chất lượng thông tin tài chính cũng như dữ liệu đầu vào. Cơ sở hạ tầng thông tin kinh doanh của Việt Nam, bao gồm thông tin tài chính DN còn thô sơ và phân mảnh, chưa minh bạch và thiếu thông tin chiều sâu về các bên liên quan, đặc biệt là khách hàng và nhà cung cấp tại thời điểm suy thoái kinh tế. Hơn nữa, độ tin cậy của dữ liệu đầu vào ở Việt Nam vẫn còn thấp do cơ sở hạ tầng nguồn dữ liệu ở Việt Nam vẫn còn phân tán, môi trường lập báo cáo tài chính chưa hoàn thiện. Điều này tạo ra một thách thức lớn trong việc xử lý dữ liệu khi áp dụng vào bất cứ mô hình quản lý rủi ro nào tại Việt Nam. Thông tin DN còn phân tán, thiếu minh bạch Các vấn đề chính về chất lượng thông tin DN tại Việt Nam bao gồm: Chưa được yêu cầu kiểm toán với công ty chưa đại chúng; chế độ hai sổ kế toán còn phổ biến; thuyết minh còn hạn chế, thiếu giải trình của ban lãnh đạo, thiếu các thống kê và phân tích tổng hợp. Điều này khiến cho công tác quản trị rủi ro khó khăn hơn và hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư hiệu quả thấp hơn. “Lấy ví dụ, phân tích với nhiều DN bán lẻ, khi công ty này bán hàng cho những khách hàng lẻ, công ty có thể không xuất hóa đơn thuế, do vậy sẽ không ghi nhận khoản thu này trong báo cáo tài chính cho mục đích thuế để tránh tăng thuế thu nhập DN. Trong khi đó, khoản thu này sẽ ghi nhận trên báo cáo tài chính gửi cho các ngân hàng cho mục đích vay tín dụng”, chuyên gia của StoxPlus cho biết. Do đó, khuyến nghị với các nhà cho vay, nhà đầu tư, các đối tác thương mại là phải thực hiện việc xác nhận, phân tích và giám sát dữ liệu định kỳ để đảm bảo mô hình rủi ro hoạt động tốt, đặc biệt tại các thị trường mới nổi như Việt Nam. Hiện nay, xu hướng ứng dụng dữ liệu lớn, phân tích dữ liệu phục vụ công tác quản trị rủi ro là xu hướng tất yếu trong công tác quản trị rủi ro. Tuy nhiên, bất cứ hệ thống quản trị rủi ro nào cũng cần dữ liệu đầu vào sạch và đáng tin cậy đặc biệt là thông tin tài chính. Trong bối cảnh hạ tầng thông tin và cơ sở dữ liệu của Việt Nam còn đang trong quá trình hoàn thiện, còn rất nhiều công việc phải triển khai để xử lý, chuẩn hóa và làm sạch dữ liệu, nhằm đảm bảo mô hình quản trị rủi ro dựa trên dữ liệu lớn thực sự phát huy tác dụng và có hiệu quả cao.
H.Y |