Lạc quan tỉnh táo
Vấn đề hội hội nhập,ểunộidungcáccamkếtlàđiểmkhócủadoanhnghiệđá banh hôm.nay cũng như sự chuẩn bị của doanh nghiệp với tiến trình hội nhập của Việt Nam không phải là câu chuyện mới nhưng những số liệu khảo sát mà bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nêu ra khá bất ngờ.
Để trả lời cho câu hỏi “doanh nghiệp Việt Nam đã sẵn sàng cho TPP và EVFTA chưa?”, VCCI đã có cuộc điều tra với 1.500 doanh nghiệp sản xuất. Số doanh nghiệp phản hồi lại chỉ có khoảng 250 doanh nghiệp, so với 500.000 doanh nghiệp đang hoạt động là con số quá nhỏ, song với cách điều tra ngẫu nhiên bà Trang cho rằng: “Câu trả lời thu được cũng có ý nghĩa với cơ quan chức năng để có thể hỗ trợ doanh nghiệp tốt nhất”.
Và kết quả từ cuộc khảo sát đó đã đưa ra câu trả lời ngắn gọn nhất mà VCCI nhận được đó là “doanh nghiệp đã sẵn sàng hơn cho TPP và EVFTA nhưng chưa đủ”.
Bà Trang dẫn ra 3 lý do để VCCI đưa ra kết luận doanh nghiệp “đã sẵn sàng hơn”. Thứ nhất, 83% doanh nghiệp được hỏi biết về TPP và EVFTA nhiều hơn con số 77% của năm 2015. Con số này có được một phần nhờ vào nỗ lực của các cơ quan Chính phủ trong việc tuyên truyền, phổ biến thông tin cho doanh nghiệp.
Thứ hai, sau khi biết về TPP và EVFTA, doanh nghiệp đánh giá lạc quan hơn về tác động của 2 hiệp định thương mại tự do (FTA) này. Hầu hết doanh nghiệp (80-90%) đều đánh giá mức độ ảnh hưởng tích cực.
“Điều này cho thấy doanh nghiệp khá lạc quan nhưng là sự lạc quan tỉnh táo khi 70% doanh nghiệp nhận thức cạnh tranh sẽ khó khăn hơn. Có đến 90% doanh nghiệp đánh giá tác động của TPP, EVFTA đối với nền kinh tế nhiều hơn so với tác động đến bản thân doanh nghiệp. Vì thế, doanh nghiệp nhìn thấy khả năng tận dụng cơ hội từ các FTA này thấp hơn so với sự tác động tới nền kinh tế”, bà Trang phân tích.
Thứ ba, không chỉ dừng ở hiểu biết, doanh nghiệp đã bắt đầu có hành động chuẩn bị tận dụng những lợi ích mà các FTA mang lại. Theo đó, 88% doanh nghiệp trả lời có kế hoạch cải thiện năng lực sản xuất, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu trong 3 năm tới.
Kế hoạch mà doanh nghiệp tập trung nhiều nhất ở 3 khía cạnh: Tập trung vào chất lượng sản phẩm (80%); 62% doanh nghiệp có kế hoạch tận dụng công nghệ- cách nền kinh tế hiện địa hướng tới; tiếp cận thị trường mới.
Tuy nhiên, 3 khía cạnh doanh nghiệp ít tập trung là chuyển đổi sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng; đạt tiêu chuẩn lao động quốc tế; tham gia chuỗi sản xuất, lĩnh vực mới. “Qua đây có thể thấy, doanh nghiệp đã chú ý nhiều hơn đến câu chuyện điều chỉnh để tận dụng thay vì thay đổi để nắm bắt cơ hội”, bà Trang nhận định.
Doanh nghiệp thiếu thông tin
Dù tỷ lệ doanh nghiệp hiểu về các hiệp định đã tăng lên song vị đại diện VCCI vẫn cho rằng, doanh nghiệp “chưa đủ sẵn sàng”. Đại diện các doanh nghiệp cho hay, các cam kết phức tạp khiến doanh nghiệp khó hiểu bản chất cam kết để thực hiện. Thừa nhận điều này bà Trang cho rằng: “Cơ quan nhà nước hiểu bản chất cam kết để thực hiện còn khó khăn thì với doanh nghiệp sẽ còn khó khăn gấp nhiều lần.
Ý kiến của ông Nguyễn Khánh Ngọc, Thứ trưởng Bộ Tư pháp cùng đồng tình với thực tế này khi vị này bày tỏ sự quan ngại về trình độ tiếng Anh, khả năng của cán bộ Việt trong việc hiểu đúng bản chất pháp lý, nội hàm các quy định quốc tế liên quan FTA để chuyển hóa, thiết kế lời văn điều chỉnh pháp luật Việt Nam.
Không chỉ vậy, doanh nghiệp còn thiếu thông tin đầy đủ về cam kết và cách thức thực hiện; bất cập trong tổ chức thực thi hiệp định của cơ quan nhà nước. “Năng lực cạnh tranh thấp là vấn đề của bản thân doanh nghiệp khi tham gia FTA. Tuy nhiên, có nhiều yếu tố cản trở việc doanh nghiệp cải thiện năng lực sản xuất như chính sách thuế, tình trạng nhũng nhiễu, cơ sở hạ tầng, tay nghề lao động, chính sách lương…”, bà Trang nhấn mạnh.
Có thể thấy, các FTA thế hệ mới được kỳ vọng mở ra cơ hội lớn cho doanh nghiệp Việt Nam như tăng trưởng xuất khẩu, mở rộng thị trường... Làm sao để tận dụng những cơ hội này, câu trả lời được nhiều chuyên gia nhắc tới vẫn là sự tự vận động của doanh nghiệp như chủ động thay đổi, nâng cao năng lực sản xuất, cạnh tranh, dũng cảm thay đổi, sẵn sàng điều chỉnh.
Tuy nhiên, sự nỗ lực thay đổi của doanh nghiệp là chưa đủ. Còn cần đến bàn tay nâng đỡ, sự hỗ trợ của cơ quan nhà nước trong việc cải thiện môi trường kinh doanh, thay đổi chính sách tạo đà cho doanh nghiệp.