【kèo việt nam vs indonesia】Ứng phó với những rủi ro bất định trong năm 2023

 人参与 | 时间:2025-01-12 23:01:59

Năm 2023,Ứngphóvớinhữngrủirobấtđịnhtrongnăkèo việt nam vs indonesia hoạt động thu – chi ngân sách và công tác điều hành giá cả dự kiến đối mặt nhiều khó khăn do biến động địa – chính trị trên thế giới vẫn tiếp diễn, khiến nhiều quốc gia tiếp tục xu hướng tăng lãi suất, thu hẹp chính sách tiền tệ, tài khóa. Điều này dẫn tới suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu, nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng, lạm phát tăng cao.

Giá nguyên nhiên liệu đầu vào diễn biến khó lường cũng sẽ tác động đến các mặt hàng đầu vào quan trọng trong nước như điện, xăng dầu. Ngoài ra, đồng đô la Mỹ gây sức ép lên tỷ giá, lãi suất sẽ khiến lãi suất cho vay tăng, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống nhân dân.

KTSG Onlineđã có cuộc trò chuyện với ông Hồ Đức Phớc, Bộ trưởng Bộ Tài chính, xung quanh những khó khăn của năm 2023 và giải pháp của ngành Tài chính để góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng cường năng lực thích ứng và chống chịu của hệ thống tài chính.

– KTSG Online: Bối cảnh kinh tế thế giới tác động ra sao tới nhiệm vụ thu – chi ngân sách năm 2022, thưa Bộ trưởng?

– Ông Hồ Đức Phớc: Tình hình thế giới năm 2022 tiếp tục biến động phức tạp, khó lường, tác động không thuận đến nỗ lực phục hồi kinh tế toàn cầu sau 2 năm chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19.

Theo đó, xung đột vũ trang Nga – Ukraine leo thang từ cuối tháng 2-2022, kết hợp với việc thực thi chính sách kiểm soát dịch bệnh nghiêm ngặt của Trung Quốc gây gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu, giá xăng dầu và các mặt hàng nguyên liệu đầu vào tăng cao, rủi ro an ninh năng lượng, lương thực trên toàn cầu gia tăng. Lạm phát tăng cao, các nước lớn điều hành chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt, tăng lãi suất, tiềm ẩn nguy cơ mất thanh khoản, rủi ro, bất ổn trên thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường bất động sản khó khăn.

Ngoài ra, thiên tai, biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, gây thiệt hại lớn ở nhiều quốc gia.

Điều này khiến các tổ chức quốc tế hạ dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới và nhiều nền kinh tế lớn trong năm 2022-2023, trong đó một số quốc gia như Anh, Đức, Ý… đã có dấu hiệu rơi vào suy thoái.

Với Việt Nam dịch Covid-19 được kiểm soát; việc triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội đã bước đầu phát huy hiệu quả, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, giúp nền kinh tế phục hồi tích cực, các cân đối lớn của nền kinh tế được đảm bảo; hệ số tín nhiệm quốc gia tiếp tục được cải thiện.

Nhiều chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2022 đánh giá hoàn thành, trong đó đạt và vượt 14/15 chỉ tiêu chủ yếu, tăng trưởng GDP đạt khoảng 8%, lạm phát kiểm soát ở mức 4%, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 9,5%, xuất siêu khoảng 10 tỉ đô la Mỹ; quốc phòng an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi được quan tâm thực hiện tốt.

Tuy nhiên, quá trình điều hành đã phát sinh nhiều khó khăn, giá xăng dầu và các nguyên liệu đầu vào tăng cao làm tăng chi phí sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, tăng áp lực kiểm soát lạm phát; việc điều chỉnh tăng mạnh lãi suất của FED và một số nước tạo áp lực lên tỷ giá; một số thị trường xuất khẩu vẫn còn khó khăn; thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp diễn biến phức tạp, ảnh hưởng lớn đến thanh khoản của hệ thống ngân hàng và nền kinh tế; thị trường bất động sản khó khăn; giải ngân vốn đầu tư công chậm; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp, khó lường… tác động không thuận đến việc thực hiện các nhiệm vụ tài chính – ngân sách năm 2022.

Vậy ngành tài chính đã ứng xử ra sao trong bối cảnh nêu trên?

Về thu ngân sách, Bộ Tài chính đã chủ động đề xuất cấp có thẩm quyền kịp thời có những điều chỉnh về chính sách tài khóa thông qua miễn, giảm gia hạn thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất với quy mô dự kiến khoảng 233.500 tỉ đồng, gồm: gia hạn khoảng 135.000 tỉ đồng, miễn – giảm khoảng 98.500 tỉ đồng để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội

Về kiểm soát giá cả, bộ đã trình Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành hai Nghị quyết về giảm mức thuế bảo vệ môi trường đối với các mặt hàng xăng, dầu, mỡ nhờn với quy mô dự kiến khoảng 32.000 tỉ đồng nhằm giảm bớt khó khăn cho nền kinh tế trước sự leo thang của giá xăng, dầu, nguyên nhiên vật liệu, bên cạnh các giải pháp miễn, giảm thuế giá trị gia tăng, lệ phí trước bạ, thuế bảo vệ môi trường… của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội theo Nghị quyết 43 của Quốc hội.

Về chi, bộ đã tham mưu gói chính sách thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội với quy mô khoảng 347.000 tỉ đồng. Trong tổ chức thực hiện, đáp ứng yêu cầu điều hành các nhiệm vụ chi bám sát dự toán, xử lý kịp thời các nhiệm vụ phát sinh đột xuất phát sinh về phòng – chống dịch, khắc phục hậu quả thiên tai, đảm bảo an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh.

Để đảm bảo nguồn lực thực hiện Chương trình phục hồi, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định bổ sung 6.840 tỉ đồng thực hiện Chương trình phục hồi từ nguồn tăng thu, cắt giảm, tiết kiệm chi ngân sách trung ương năm 2021. Đồng thời, yêu cầu các bộ, cơ quan trung ương và các địa phương triệt để tiết kiệm chi thường xuyên; rà soát sắp xếp các nhiệm vụ chi chưa thực sự cấp thiết; kiên quyết cắt giảm những khoản chi ngân sách trung ương đã được giao trong dự toán đầu năm nhưng đến ngày 30-6-2022 chưa phân bổ để bổ sung nguồn lực thực hiện Chương trình.

Với chi đầu tư phát triển, do giá cả sắt, thép và một số nguyên vật liệu tăng cao đã tác động đến việc đấu thầu, triển khai thực hiện các công trình, dự án, cần có các giải pháp xử lý, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công cùng với các biện pháp kiểm soát giá kịp thời.

Với chi trả nợ lãi, các khoản vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài của Chính phủ chủ yếu là các khoản vay với lãi suất cố định (chiếm khoảng 70%) nên ít chịu tác động của diễn biến tăng lãi suất trên thị trường thế giới.

Với các tác động trên, cân đối ngân sách trung ương và ngân sách địa phương vẫn được đảm bảo. Ước tính năm 2022, bội chi ngân sách Nhà nước (NSNN), bao gồm Chương trình phục hồi thực hiện phấn đấu khoảng 4% GDP. Nếu tính số bội chi Quốc hội mới bổ sung cho 5 dự án được chuyển đổi của VEC, VIDIFI, thì bội chi NSNN năm 2022 ước khoảng 4,3% GDP.

Bộ Tài chính đã chủ động điều hành việc phát hành trái phiếu Chính phủ để vừa sử dụng có hiệu quả ngân quỹ nhà nước, vừa đảm bảo nguồn thanh toán, chi trả kịp thời các khoản nợ gốc đến hạn và góp phần định hướng sự phát triển của thị trường, cơ cấu lại nợ công. Lũy kế đến ngày 15-12-2022, đã phát hành được 203.200 tỉ đồng trái phiếu Chính phủ, bằng 50,8% nhu cầu huy động trái phiếu Chính phủ đầu năm, kỳ hạn phát hành bình quân 12,67 năm, lãi suất bình quân 3,41% một năm.

Nền kinh tế dự kiến đối mặt với không ít rủi ro bất định trong năm 2023 như lạm phát và đứt gãy chuỗi sản xuất – cung ứng do xung đột Nga – Ukraine kéo dài, về mặt chính sách thì Bộ Tài chính đã có sự chuẩn bị ra sao để ứng phó với rủi ro sắp tới?

Đến thời điểm này, thu nội địa đã hoàn thành và vượt dự toán mà Quốc hội, Chính phủ đã giao cho Bộ Tài chính. Đây không chỉ là kết quả thể hiện sự nỗ lực của ngành Tài chính, cơ quan thuế các cấp mà là kết quả của cả hệ thống chính trị trong phòng chống dịch bệnh. Những quyết sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước trong phục hồi kinh tế, kiểm soát lạm phát.

Tuy nhiên, từ quý 3-2022 trở lại đây, nền kinh tế đã bộc lộ một số khó khăn, khi tình hình thế giới có nhiều biến động khó lường; xung đột địa chính trị Nga – Ukraine diễn biến phức tạp; khủng hoảng năng lượng ngày càng trầm trọng kéo theo khủng hoảng các thị trường hàng hóa khác; các nước lớn áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro trên thị trường tài chính, tiền tệ.

Ở trong nước, áp lực lạm phát gia tăng; thị trường vốn, bất động sản, chứng khoán, tiền tệ, giải ngân vốn đầu tư công còn nhiều điểm nghẽn chưa thể khắc phục ngay để khôi phục nguồn thu NSNN. Sức ép về lãi suất, tỷ giá, lạm phát đẩy chi phí đầu vào tăng cao, đầu ra tiêu thụ chậm lại do thiếu đơn hàng mới. Thị trường xuất khẩu giảm sút khi cầu tiêu dùng tại nhiều quốc gia suy giảm… Những vấn đề trên sẽ là những áp lực lớn cho việc triển khai thực hiện nhiệm vụ thu NSNN trong năm 2023.

Để giảm thiểu tác động từ bên ngoài, kiềm chế lạm phát, Chính phủ đang nghiên cứu trình Quốc hội một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho DN, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường tốt cho DN phát triển, trước mắt, có thể sẽ làm giảm thu nội địa năm 2023 so dự toán đã tính toán, tạo áp lực trong triển khai thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách đối với ngành thuế trong năm 2023.

Trước những khó khăn trên, ngành Tài chính đã xác định thu ngân sách sẽ phải đối diện với những áp lực lớn và đã sẵn sàng các kịch bản ứng phó trong triển khai thực hiện nhiệm vụ thu cho cả năm 2023 và giai đoạn 2023-2025 để hoàn thành mục tiêu thu ngân sách theo Nghị quyết của Quốc hội.

Để đạt được kết quả này thì trong năm 2023, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục triển khai quyết liệt một số nhóm giải pháp.

Thứnhất,bám sát chủ trương, định hướng của Đảng, các nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về chính sách tài khóa nhằm phục hồi và phát triển KT-XH, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Đặc biệt, tiếp tục đẩy mạnh triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp tài khóa, tiền tệ tại Nghị quyết số 43/2022 của Quốc hội, Nghị quyết số 11 của Chính phủ Nghị quyết số 69/2022 của Quốc hội về dự toán NSNN và các Nghị quyết mới của Quốc hội, Chính phủ. Đồng thời, chủ động nghiên cứu, tham mưu Chính phủ báo cáo Quốc hội có những giải pháp mới phù hợp tình hình thực tiễn.

Thứhai,nghiên cứu, rà soát và sửa đổi, bổ sung các Luật về thuế theo Chiến lược Cải cách hệ thống thuế đến năm 2030. Đồng thời, tiếp tục thực hiện một số giải pháp để hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân có thêm nguồn lực ứng phó với những khó khăn, thách thức trong thời gian tới.

Bên cạnh đó, thực hiện các giải pháp về quản lý thu NSNN và cải cách thủ tục hành chính trong quản lý thu NSNN, đảm bảo thực hiện hiệu quả các mục tiêu đề ra..

Thứba,chủ động rà soát lại nhu cầu chi và cơ cấu lại chi NSNN; sắp xếp các khoản chi theo thứ tự ưu tiên, thực hiện quản lý chi NSNN chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả. Kiểm soát chặt chẽ bội chi NSNN, nợ công, cơ cấu nợ công trong giới hạn; sử dụng hiệu quả ngân quỹ nhà nước; tăng cường quản lý hoạt động của các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách.

Thứ, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý giá; điều hành linh hoạt giá cả trên cơ sở dự báo cung – cầu thị trường. Tăng cường kiểm tra, giám sát giá cả, thị trường, nhất là với các nhóm hàng năng lượng, vật liệu xây dựng, sắt thép.

Thứnăm,thực hiện các biện pháp cần thiết để ổn định và phát triển thị trường vốn công khai, minh bạch, an toàn, bền vững nhằm khơi thông nguồn vốn trung và dài hạn cho đầu tư và phát triển, tập trung hoàn thiện khung pháp lý và thể chế; đẩy mạnh công tác giám sát, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật; tăng cường công tác truyền thông, tạo dựng niềm tin của nhà đầu tư.

Tổng thu ngân sách năm 2023 tăng 0,41% so với tổng thu ước tính năm 2022, tỷ lệ tổng thu ngân sách/GDP chỉ đạt gần 15,7% – thấp hơn so với những năm trước. Việc đặt mục tiêu tăng thu ngân sách với mức thấp như vậy liệu có quá thận trọng?

Tại kỳ họp thứ 4 khóa XV Quốc hội đã thông qua dự toán tổng thu NSNN năm 2023 là 1.620.744 tỉ đồng, tăng 0,4% so với ước thực hiện năm 2022; tỷ lệ huy động NSNN đạt 15,7% GDP.

Đúng là nhìn vào số liệu thì dự toán thu NSNN năm 2023 khá thận trọng so với ước thực hiện năm 2022, tỷ lệ huy động NSNN so GDP cũng ở mức thấp. Nhưng khi phân tích sâu từng yếu tố thì mức dự toán trên phù hợp với những dự báo về bối cảnh kinh tế – xã hội trong và ngoài nước năm 2023.

Với bối cảnh hiện nay, tình hình kinh tế – xã hội trong và ngoài nước diễn biến nhanh, khó dự báo, các yếu tố khó khăn xuất hiện ngày càng nhiều. Trên thế giới, một số nền kinh tế lớn đối mặt với nguy cơ suy thoái, áp lực lạm phát gia tăng; xung đột địa chính trị, cạnh tranh chiến lước giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, các vấn đề an ninh – quốc phòng, chủ quyền quốc gia, biến đổi khí hậu và các vấn đề an ninh phi truyền thống khác.

Trong nước, quy mô nền kinh tế còn khiêm tốn, độ mở lớn; năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh chưa cao; thị trường tài chính, thị trường vốn chịu ảnh hưởng bởi thế giới, cũng như tác động từ các vụ việc vi phạm pháp luật của một số tổ chức, cá nhân.

Để chủ động trong điều hành, việc xây dựng dự toán thu NSNN năm 2023 chắc chắn, phù hợp với khả năng của nền kinh tế là yêu cầu rất cấp thiết.

Thu NSNN, bao gồm thu nội địa, thu dầu thô và thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu. Một số khoản thu phụ thuộc lớn vào môi trường bên ngoài có xu hướng suy giảm do nhu cầu, thị trường bị thu hẹp, như khoản thu dầu thô phụ thuộc vào năng lực khai thác dầu thô trong nước và giá dầu thô trên thị trường thế giới. Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu ngoài việc phụ vào thị trường, giá cả, cung cầu hàng hóa của thế giới, thì còn phụ thuộc vào lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế về thuế.

Với khoản thu nội địa, nếu loại trừ các yếu tố phát sinh năm 2022 không tiếp tục phát sinh năm 2023 và các khoản thu dự kiến sụt giảm lớn năm 2023 do chịu tác động từ môi trường khách quan như thu từ thị trường bất động sản thì thu nội địa từ hoạt động sản xuất kinh doanh tăng khoảng 8,9% so với ước thực hiện năm 2022, cao hơn cả mục tiêu tăng trưởng kinh tế đã đề ra.

Ngoài ra, những biến động kinh tế gần đây cũng đặt ra yêu cầu phải tiếp tục có giải pháp về chính sách tài khóa để tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, duy trì đà phục hồi và phát triển của nền kinh tế.

Với tác động khách quan đó, mức dự toán thu NSNN năm 2023 được Quốc hội quyết định là tích cực, trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng các yếu tố, đảm bảo chủ động linh hoạt trong điều hành trong điều kiện kinh tế có nhiều biến động. Trong tổ chức thực hiện, trường hợp thu ngân sách năm 2023 vượt so với dự toán sẽ ưu tiên bố trí nguồn để thực hiện cải cách tiền lương, giảm bội chi ngân sách theo Nghị quyết của Quốc hội.

Với dự toán chi NSNN,Quốc hộiquyết định dành tới 35% tổng chi năm 2023 cho chi đầu tư phát triểnmột tỷ trọng rất cao so với dự toán năm 2022 (29,5%) và thực hiện trong 9 tháng 2022 (23,3%). Cơ sở nào để ngành tài chính kiến nghị phân bổ nhiều nguồn lực cho chi đầu tư phát triển như vậy?

Năm 2023 dự báo kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến rất phức tạp, khó lường, thậm chí khó khăn hơn năm 2022. Trong nước, với nền tảng là quá trình phục hồi tích cực thời gian qua, nhất là từ kết quả tích cực trong phòng, chống dịch Covid-19 đã sớm đưa nền kinh tế trở lại trạng thái bình thường mới, kinh tế nước ta dự báo sẽ phục hồi tích cực. Mặc dù vậy, rủi ro vẫn còn rất lớn.

Quán triệt phương châm điều hành “đoàn kết, kỷ cương, bản lĩnh, linh hoạt, đổi mới sáng tạo, kịp thời, hiệu quả” nhằm tiếp tục ưu tiên giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, việc ưu tiên bố trí chi đầu tư phát triển, tạo động lực phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội ở cả Trung ương và địa phương là cần thiết.

Với tinh thần đó, Chính phủ đã báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị để trình Quốc hội thông qua dự toán chi đầu tư phát triển năm 2023 chiếm tỷ trọng 35% tổng chi NSNN, là mức cao so với dự toán năm 2022 (29,5%), nhằm hướng tới một số mục tiêu.

Thứ nhất, bố trí đủ kinh phí thực hiện các nhiệm vụ trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội đã được Quốc hội thông qua;

Thứ hai, bố trí vốn tập trung, tránh dàn trải, ưu tiên các công trình, dự án trọng điểm quốc gia, có sức lan tỏa, có tác động liên vùng có ý nghĩa thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội nhanh, bền vững, các Chương trình mục tiêu quốc gia theo phê duyệt;

Thứ ba, bố trí vốn thanh toán đủ số nợ đọng xây dựng cơ bản theo quy định, các dự án chuyển tiếp, đặc biệt là các dự án có tiến độ giải ngân tốt để hoàn thành dự án, bố trí vốn cho các dự án khởi công mới đã đủ thủ tục đầu tư. Mức bố trí cho từng dự án bám sát kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 đã được duyệt.

Tuy nhiên, dự toán này cũng đặt ra những áp lực nhất định về khả năng thực hiện và giải ngân. Để thực hiện dự toán được giao, Chính phủ và Thủ tướng đề ra các giải pháp, yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương quyết liệt triển khai thực hiện, đề cao kỷ luật, kỷ cương đầu tư công, cá thể hóa trách nhiệm người đứng đầu trong trường hợp giải ngân chậm, gắn kết quả giải ngân với đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, cản trở làm chậm tiến độ giao vốn, giải ngân vốn.

Về phía Bộ Tài chính, với chức năng nhiệm vụ được giao, chúng tôi sẽ chủ động phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư đôn đốc, kiểm tra, hướng dẫn việc thực hiện kế hoạch đầu tư công vốn ngân sách của các Bộ, ngành, địa phương và định kỳ hằng tháng, hằng quý báo cáo Thủ tướng.

Số giải ngân và tỷ lệ giải ngân cho đầu tư phát triển những năm gần đây thường không hoàn thành mục tiêu đề ra. Theo Bộ trưởng, nguyên nhân nào dẫn tới vấn đề này và giải pháp của Bộ Tài chính để hoàn thành kế hoạch đầu tư công năm 2023?

Ngay từ đầu năm 2022, Chính phủ và Thủ tướng đã có nhiều chỉ đạo quyết liệt để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công. Tính đến tháng 10-2022, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 4 Nghị quyết chuyên đề, 7 văn bản chỉ đạo của Lãnh đạo Chính phủ; 2 Chỉ thị và 3 công điện của Thủ tướng, ngoài ra còn có các Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ.

Tuy nhiên, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công những tháng đầu năm 2022 vẫn còn thấp.

Để làm rõ nguyên nhân, đề ra các giải pháp đúng, trúng và kịp thời Thủ tướng Chính phủ đã thành lập 6 Tổ công tác với 4 đợt kiểm tra liên tiếp để kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công năm 2022 tại một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương.

Qua các đợt kiểm tra, tại báo cáo của Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tình hình, kết quả thực hiện kế hoạch đầu tư công năm 2022 và dự kiến kế hoạch đầu tư công năm 2023, một số nguyên nhân làm chậm tiến độ giải ngân vốn đầu tư công đã được chỉ ra.

Về khách quan, năm 2022 là năm vẫn chịu tác động mạnh mẽ của đại dịch Covid 19, cùng với đó là các yếu tố biến động đến từ bên ngoài tác động đến nền kinh tế dẫn tới giá nguyên, nhiên, vật liệu, cước phí vận chuyển hàng hóa quốc tế,… tăng cao; huy động chuyên gia, nhà quản lý, nhà thầu nước ngoài, máy móc thiết bị nhập khẩu phục vụ dự án đầu tư công, đặc biệt là các dự án ODA và vay ưu đãi nước ngoài bị ảnh hưởng.

Bên cạnh đó, năm 2022 là năm thứ hai triển khai kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, nhưng thực chất là năm đầu tiên triển khai các dự án mới theo Nghị quyết của Quốc hội vào tháng 7-2021. Đây là năm các bộ, ngành, địa phương bắt đầu khởi công nhiều dự án, do đó cũng mới bắt đầu triển khai các thủ tục đầu tư, đấu thầu.

Về chủ quan, một số quy định của pháp luật còn chưa đồng bộ, thống nhất, khả thi, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Một số bất cập trong cơ chế, chính sách tuy đã được phát hiện nhưng còn chậm được sửa đổi, bổ sung. Cơ chế phối hợp giữa các bộ, cơ quan trung ương, giữa trung ương và địa phương trong việc xử lý vướng mắc đầu tư công chưa hiệu quả, nhiều vướng mắc tồn tại từ lâu nhưng vẫn chưa có giải pháp căn cơ, xử lý dứt điểm như công tác giải phóng mặt bằng.

Ý thức chấp hành pháp luật, ý thức tôn trọng kỷ luật, kỷ cương trong đầu tư công còn chưa cao, chưa chủ động, chưa tuân thủ nguyên tắc trong đầu tư công, chuẩn bị thủ tục cần thiết để giao kế hoạch; một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương phân bổ chưa bám sát nguyên tắc, tiêu chí quy định tại Luật Đầu tư công, Nghị quyết của Quốc hội và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ dẫn đến phải điều chỉnh lại phương án phân bổ.

Năng lực trong triển khai thực hiện còn yếu, chưa quyết liệt, chưa hiệu quả; vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu chưa được thể hiện rõ; phân bổ vốn còn bình quân, thiếu trọng tâm, trọng điểm; chưa sâu sát, thiếu đôn đốc, kiểm tra,…, còn tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm. Năng lực lập kế hoạch, tổ chức triển khai thực hiện còn nhiều bất cập, nhất là năng lực về thẩm định, kiểm tra, giám sát, thi công… dẫn tới tình trạng nhiều dự án chậm tiến độ, chậm giải ngân, chậm quyết toán…

Đối với công tác thực hiện dự án, giải ngân vốn, các cấp, các ngành chưa thực sự vào cuộc, vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu chưa được đề cao, chưa rõ nét; công tác tuyên truyền đến người dân về chính sách bồi thường, hỗ trợ giải phóng măt bằng còn chưa đầy đủ, một số chủ đầu tư chưa tích cực thực hiện các thủ tục thanh toán, quyết toán; năng lực chuyên môn của một số cán bộ quản lý dự án, tư vấn giám sát… còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu,…

Như vậy, nhiều hạn chế, nguyên nhân đã được Chính phủ chỉ ra. Trên cơ sở đó, ngày 15-9-2022, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 124 về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công những tháng cuối năm 2022. Đồng thời Thủ tướng đã ban hành Chỉ thị số 19 về đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, thực hiện 3 Chương trình mục tiêu quốc gia những tháng còn lại năm 2022 và nâng cao chất lượng xây dựng kế hoạch đầu tư công năm 2023. Tại Nghị quyết trên Chính phủ và Chỉ thị của Thủ tướng đã quy định nhiệm vụ cụ thể cho từng bộ quản lý ngành cũng như các công việc yêu cầu các bộ, cơ quan trung ương và địa phương triển khai thực hiện.

Giải pháp của Bộ Tài chính để góp phần hoàn thành kế hoạch đầu tư công năm 2023?

Hiện kế hoạch đầu tư nguồn NSNN năm 2023 đã được Quốc hội giao tại Nghị quyết số 70/2022 với số vốn kỷ lục 726.684,344 tỉ đồng. Thủ tướng đã có quyết định số 1513 ngày 3-1-2022 giao kế hoạch vốn đầu tư nguồn ngân sách nhà nước năm 2023. Như vậy, áp lực giải ngân các dự án trong năm 2023 là rất lớn.

Để thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công năm 2023, chúng tôi đề nghị các bộ, cơ quan trung ương cần quyết liệt triển khai các Nghị quyết của Chính phủ, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công.

Để khơi thông các vướng mắc trong chế độ chính sách, các bộ chủ trì sớm đề xuất sửa đổi các nội dung còn vướng mắc trong quy định của pháp luật về đầu tư công, đấu thầu, xây dựng, tài nguyên môi trường…

Về tổ chức thực hiện, triệt để phát huy trách nhiệm của người đứng đầu, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Trong việc tổ chức thực hiện đặc biệt cần chú trọng khâu xây dựng kế hoạch sát với khả năng thực hiện và giải ngân của từng dự án.

Ngoài ra, chỉ đạo các chủ đầu tư chủ động chuẩn bị tốt công tác chuẩn bị đầu tư, điều kiện cần thiết ngay trong năm 2022 để sẵn sàng phân bổ chi tiết kế hoạch vốn cho các dự án và triển khai các công việc thực hiện và giải ngân dự án ngay sau khi được giao kế hoạch vốn năm 2023. Không để sau khi giao vốn mới bắt đầu triển khai các công việc. Đồng thời, chú trọng đến công tác kiểm tra, giám sát để chủ động, kịp thời xử lý vướng mắc. Lựa chọn các nhà thầu thi công có năng lực, kinh nghiệm… yêu cầu các chủ đầu tư tăng việc thanh toán theo hình thực trực tuyến trên cổng thông tin dịch vụ công quốc gia để chủ động, tiết kiệm thời gian, chi phí.

Về phía Bộ Tài chính với chức năng, nhiệm vụ được giao liên quan đến giải ngân vốn đầu tư công, đặc biệt là về quy trình thủ tục thanh toán đã thực hiện đơn giản hoá thủ tục, rút ngắn thời gian kiểm soát chi tại cơ quan thanh toán xuống chỉ khoảng 1-3 ngày làm việc. Đồng thời, Bộ cũng đã quyết liệt chỉ đạo Kho bạc nhà nước đẩy mạnh việc giao nhận hồ sơ qua dịch vụ công trực tuyến nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí đi lại của các chủ đầu tư, công khai minh bạch quá trình xử lý hồ sơ tại cơ quan kiểm soát thanh toán.

Xin cảm ơn Bộ trưởng!

Nội dung: Vân Phong – Hình ảnh: M.T – Lê Vũ – Trình bày: Thu Trang

顶: 1踩: 11483