Bù trừ tiền thuế nộp thừa với tiền nợ của doanh nghiệp đã giải thể | |
Hướng dẫn bù trừ các khoản nợ thuế phát sinh | |
Thực hiện bù trừ thuế được hoàn và lệ phí hải quan |
Hoạt động nghiệp vụ tại Chi cục Hải quan cảng Cái Lân (Cục Hải quan Quảng Ninh). Ảnh: T.Trang. |
TheảiquanphảitựbùtrừtiềnthuếnộpnhầmvớitiềnnợcủaDNngừnghoạtđộbsport beto Tổng cục Hải quan, căn cứ điểm b.2 khoản 2 Điều 132 Thông tư 38/2015/TT-BTC được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư 39/2018/TT-BTC của Bộ Tài chính, việc thực hiện điều chỉnh, hoàn kiêm bù trừ với tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt còn nợ (khoản tiền còn nợ) đối với DN đã giải thể, ngừng hoạt động hoặc bỏ địa chỉ kinh doanh thực hiện như sau:
Trường hợp người nộp thuế có khoản tiền nộp thừa và khoản tiền còn nợ không cùng 1 đơn vị hải quan thì cơ quan Hải quan nơi phát sinh khoản nợ có văn bản đề nghị cơ quan Hải quan nơi có số tiền nộp thừa thực hiện hoàn trả số tiền nộp bù trừ vào số tiền còn nợ.
Theo đó, căn cứ công văn của cơ quan Hải quan nơi phát sinh khoản nợ, cơ quan Hải quan nơi có số tiền nộp thừa thay DN làm thủ tục hoàn thuế, lập lệnh hoàn trả kiêm bù trừ ngân sách. Lý do hoàn trả ghi rõ hoàn trả đối với trường hợp DN đã giải thể, ngưng hoạt động hoặc bỏ địa chỉ kinh doanh.
Trường hợp người nộp thuế có khoản tiền nộp thừa và khoản tiền còn nợ phát sinh tại cùng 1 đơn vị hải quan thì cơ quan Hải quan đó thay DN là chủ thể thực hiện thủ tục hoàn trả, lập lệnh hoàn trả kiêm thực hiện bù trừ số tiền nộp thừa với số tiền còn nợ gửi Kho bạc Nhà nước để nộp NSNN thay cho người nộp thuế.
Trường hợp điều chỉnh liên quan đến thuế GTGT thì cơ quan Hải quan nơi thực hiện hoàn thuế kiêm bù trừ có văn bản trao đổi, xác minh với cơ quan thuế để xác định các khoản tiền thuế GTGT chưa được khấu trừ hay hoàn thuế tại cơ quan Thuế, sau đó sẽ thực hiện điều chỉnh hay hoàn thuế kiêm bù trừ.
Tổng cục Hải quan cho biết, mẫu lệnh hoàn trả kiêm thực hiện bù trừ ngân sách theo quy định tại Thông tư 77/2017/TT-BTC ngày 28/7/2017. Việc hạch toán thực hiện theo quy định tại Thông tư 174/2015/TT-BTC ngày 10/11/2015 của Bộ Tài chính.