Đây là chia sẻ của ông Nguyễn Anh Dương,ảithiệnnăngsuấtđểtăngtrưởngbềnvữu23 việt nam u23 malaysia Phó Trưởng ban Chính sách Kinh tế vĩ mô, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) tại Lễ công bố Điều tra Kinh tế và Xã hội Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, ngày 28/4.
Theo ông Dương, Việt Nam không phải là quốc gia duy nhất đối mặt với vấn đề cải thiện năng suất lao động, mà đây là vấn đề của rất nhiều quốc gia trong khu vực. Câu chuyện phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam khác so với các nước phát triển khác, khi 30 năm qua, Việt Nam đã tiến hành cải cách gần như liên tục trên tất cả các lĩnh vực từ môi trường kinh doanh, phát triển hạ tầng kinh tế đến vai trò của khu vực tư nhân…
Ông cho rằng, vấn đề cải thiện năng suất lao động ở Việt Nam cần tập trung vào quyền tự do kinh doanh theo hướng thực hiện các hoạt động kinh tế không còn độc quyền của khu vực nhà nước, mà cả khu vực tư nhân cũng có quyền tham gia. Đồng thời, tăng cường cơ hội kinh tế cho các doanh nghiệp cũng như người dân.
“Tuy nhiên tạo cơ hội là chưa đủ, mà chúng ta còn phải tăng cường năng lực cho doanh nghiệp và người dân tận dụng được các cơ hội này, nếu chỉ nói đến cơ hội mà không tạo được năng lực cho người dân thì rõ ràng chúng ta sẽ khó phát triển được”, ông Dương nhấn mạnh.
Bởi theo ông Dương, khi nói đến năng suất ở Việt Nam, đây còn là câu chuyện về vĩ mô, câu chuyện về cải cách, hội nhập, bên cạnh đó về vi mô là câu chuyện về giáo dục đào tạo, khoa học - công nghệ. Cải cách cả vĩ mô và vi mô đều ảnh hưởng đến năng suất của Việt Nam.
“Nếu chúng ta vẫn cứ loay hoay với chính sách kinh tế vĩ mô, loay hoay với nới lỏng mà không quan tâm đến cải thiện nền tảng kinh tế, cải thiện sức sống cho doanh nghiệp và kỹ năng cho người lao động thì tăng trưởng chỉ đạt được trong thời gian ngắn hạn, tăng trưởng chỉ có thể bền vững khi việc cải thiện năng suất dựa trên nền tảng môi trường kinh doanh, chia sẻ lợi ích với người lao động từ quá trình tăng trưởng”.
Thông tin thêm, ông Dương cho biết tốc độ tăng năng suất của Việt Nam giai đoạn 1992 – 2014 chỉ đạt 4,6%, chỉ bằng một nửa so với Trung Quốc và nếu so với các nước ASEAN khác cũng không quá vượt trội.
Đáng chú ý, những năm gần đây tăng trưởng ở cả 3 khu vực nông, lâm, thủy sản; công nghiệp – xây dựng; dịch vụ bắt đầu chậm lại và tốc độ gần nhau hơn. Trước đó, công nghiệp – xây dựng được kỳ vọng rất nhiều và được xem là động lực của quá trình đổi mới nhưng gần đây không có sự chuyển biến nhiều.
“Vấn đề đặt ra là công nghiệp - xây dựng không còn tạo đột phá so với hai khu vực còn lại, nhìn từ góc độ chính sách có thể thấy dường như yêu cầu về cải thiện năng suất ở Việt Nam cũng như chính sách ưu tiên phát triển các ngành còn tương đối dàn trải và thiếu trọng điểm”, ông Dương cho biết.
Cũng theo ông Dương, cần thiết phải đầu tư vào các ngành khoa học – công nghệ, những ngành cần đổi mới vì mục tiêu phát triển dài hạn, vì vai trò của nhà nước là không đủ trong môi trường cạnh tranh khi các ngành nghề biến đổi và bản thân doanh nghiệp cũng như người lao động đều phải thích nghi./.
Mai Đan