【top ghi bàn c1 2023】Sẽ trình Chính phủ sửa Nghị định 20 trong tháng 12/2019

Việc sửa khoản 3 Điều 8 Nghị định 20 sẽ góp phần tạo điều kiện cho DN,ẽtrìnhChínhphủsửaNghịđịnhtrongthá<strong>top ghi bàn c1 2023</strong>

Việc sửa khoản 3 Điều 8 Nghị định 20 sẽ góp phần tạo điều kiện cho DN, nhất là các tập đoàn, tổng công ty phát triển. Ảnh: NM

Đề xuất này đang được Bộ Tài chính lấy ý kiến rộng rãi và sẽ sớm trình Chính phủ xem xét ban hành trong tháng 12 để tháo gỡ khó khăn cho DN.

Sửa để tạo điều kiện cho DN phát triển

Theo Bộ Tài chính, mục đích của việc sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 8, Nghị định 20 nhằm hoàn thiện các quy định quản lý thuế đối với các khoản vay, cho vay của các DN có phát sinh giao dịch liên kết, qua đó bảo vệ nguồn thu cho đất nước. Bên cạnh đó, việc sửa này cũng đảm bảo hài hòa quyền, lợi ích hợp pháp của DN, tạo điều kiện cho DN phát triển phù hợp với trình độ, bản chất hoạt động giao dịch kinh doanh tại Việt Nam.

Cũng theo Bộ Tài chính, việc sửa Nghị định 20 là phù hợp với yêu cầu thực tế khách quan hiện nay, phù hợp với bối cảnh quốc tế. Bộ Tài chính cho biết, Nghị định 20 được ban hành đã được các nước thành viên APEC và các tổ chức quốc tế như: WB, IMF, OECD và ADB đánh giá cao. Nghị định là bước chuẩn bị kịp thời để Việt Nam tham gia diễn đàn hành động đa phương chống xói mòn cơ sở thuế, chống chuyển lợi nhuận (BEPS). Theo báo cáo của BEPS, số thuế ước tính không thu được do các giao dịch chuyển lợi nhuận khoảng 100 - 240 tỷ USD, tương đương 4 - 10% thuế thu nhập doanh nghiệp mỗi năm.

“Trên cơ sở các diễn biến mới trên thế giới và khu vực, để bắt kịp xu hướng quản lý thuế quốc tế đối với các khoản nợ, vay nợ các tập đoàn kinh tế, công ty mẹ - con, DN liên kết, Nghị định 20 cần tiếp tục được hoàn thiện, củng cố các quy định quản lý đối với vốn mỏng, vốn ảo, trá hình, đáp ứng được yêu cầu quản lý thuế, đồng thời tiếp tục thể chế hóa định hướng, quan điểm chỉ đạo của Đảng” báo cáo của cơ quan chủ trì soạn thảo cho biết.

Về bối cảnh trong nước, xu hướng toàn cầu hóa và chính sách mở cửa nền kinh tế đã dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của các công ty đa quốc gia đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Ngược lại, các công ty lớn của Việt Nam cũng đầu tư ra thị trường quốc tế. Bên cạnh những tác động lan tỏa tích cực đến nền kinh tế, quá trình quốc tế hóa này cũng xuất hiện những thách thức, ảnh hưởng tiêu cực cho công tác chống chuyển giá, chuyển lợi nhuận thông qua các công cụ tài chính ngày càng tinh vi, phức tạp. Trước tình hình đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định 20 để quản lý thuế đối với hoạt động này.

Mặc dù việc ban hành Nghị định 20 đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên, theo phản ánh của một số DN, trong quá trình thực hiện cũng gặp phải một số khó khăn, vướng mắc. Cụ thể, quy định này áp dụng chung, không loại trừ cho những trường hợp đặc thù. Ví dụ như, khoản vay đã thực hiện trước đây của một số dự án của các DN thuộc vốn chủ sở hữu nhà nước, đặc biệt là khoản vay cũ khi cổ phẩn hóa, các khoản vay thực hiện dự án công tư, dự án chuyển giao… Hoặc quy định khống chế tổng chi phí lãi vay không rõ theo hướng gộp (không cho trừ doanh thu lãi từ tiền cho vay) hay thuần (cho trừ doanh thu lãi từ tiền cho vay) gây khó khăn cho DN, quy định khống chế chi phí lãi tiền vay 20% ảnh hưởng đến huy động vốn trung và dài hạn…

Để tháo gỡ những vướng mắc trên đây, cũng để tiếp tục hoàn chỉnh, củng cố quy định quản lý, đảm bảo công khai, minh bạch, công bằng, không phân biệt đối xử theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính đã xây dựng dự thảo sửa đổi quy định khống chế chi phí lãi vay tại khoản 3 Điều 8, Nghị định 20.

Chi phí lãi vay thuần không vượt quá 30%

Nhằm đáp ứng nhu cầu huy động, luân chuyển vốn của các công ty mẹ, công ty quản lý quỹ của các tập đoàn, tổng công ty có chức năng trung chuyển vốn, vay và cho vay lại, các công ty chứng khoán thực hiện giao dịch ký quỹ, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành quy định hướng dẫn rõ quy định được áp dụng đối với tổng chi phí lãi vay thuần, nhằm làm rõ cách hiểu để tháo gỡ cho các DN thực hiện chức năng trung chuyển vốn, vay về cho vay lại.

Ngoài ra, trường hợp quy định áp dụng khống chế chi phí lãi vay thuần, Bộ Tài chính thấy cần thiết phải có quy định hướng dẫn chi tiết thống nhất phương pháp tính toán, xác định rõ các khoản thu, chi phí được tính khi xác định chi phí lãi vay chịu khống chế trên cơ sở thông lệ quốc tế nhằm hạn chế DN lách, né thực hiện. Cụ thể, tại dự thảo nghị định hướng dẫn: “Tổng chi phí lãi vay thuần phát sinh trong kỳ của người nộp thuế (chi phí lãi vay bù trừ với doanh thu lãi tiền gửi, tiền cho vay) được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp không vượt quá 30% của tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh cộng với chi phí lãi vay thuần, chi phí khấu hao trong kỳ của người nộp thuế”.

Dự thảo nghị định cũng hướng dẫn cụ thể về doanh thu lãi tiền gửi, tiền cho vay và các khoản có tính chất tương tự được xác định theo pháp luật về kế toán và thuế. Chi phí lãi vay bao gồm chi phí lãi vay và các khoản có tính chất tương tự lãi vay, bao gồm cả chi trả tiền vay được tính vào giá trị đầu tư theo quy định của pháp luật về kế toán và thuế.

Bộ Tài chính cho biết, về tác động định tính, phương án hướng dẫn rõ áp dụng tổng chi phí lãi vay thuần cho phép các DN thực hiện các hoạt động trung chuyển vốn, vay, cho vay lại, quản lý quỹ, ký quỹ trong nội bộ tập đoàn sẽ giải quyết được toàn bộ khó khăn, vướng mắc của các đơn vị có ý kiến khi áp dụng chi phí lãi vay gộp theo quy định tại Nghị định 20. Về định lượng, khi áp dụng đồng thời các phương án tháo gỡ gồm khống chế 30% chi phí lãi vay thuần và cho chuyển lãi vay tương ứng chuyển lỗ, về đối tượng áp dụng, số lượng DN bị loại chi phí lãi vay năm 2017 giảm từ 2.799 đơn vị xuống 1.034 đơn vị; năm 2018 giảm từ 3.080 đơn vị xuống còn 1.093 đơn vị, tốc độ giảm tương ứng là 63 - 65%.

Giải thích về việc khống chế chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp, Bộ Tài chính cho biết, để tránh việc đánh thuế trùng, OECD khuyến nghị các nước cần quy định ngưỡng giới hạn khấu trừ chi phí lãi vay trong khoảng từ 10 - 30% trên tổng lợi nhuận trước thuế chưa trừ khấu hao và lãi vay (EBITDA), tùy theo đặc điểm và kinh tế của mỗi quốc gia để cân nhắc mức ngưỡng cụ thể nêu trên. Bộ Tài chính cho rằng, việc nâng khống chế 30% là phù hợp với thực tế của Việt Nam và thông lệ quốc tế.

Nhật Minh