【trận club america】Bộ Tài chính lấy ý kiến về sửa đổi chính sách thuế bảo vệ môi trường
Nâng cao trách nhiệm,ộTàichínhlấyýkiếnvềsửađổichínhsáchthuếbảovệmôitrườtrận club america nhận thức xã hội về môi trường
Theo Bộ Tài chính, Luật thuế Bảo vệ môi trường (BVMT), có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2012. Qua gần 5 năm triển khai thực hiện Luật thuế BVMT đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
Đánh giá chung, thuế BVMT đã góp phần nâng cao trách nhiệm và nhận thức của xã hội đối với môi trường; khuyến khích sản xuất, tiêu dùng hàng hóa thân thiện với môi trường; qua đó đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế bền vững, khuyến khích phát triển kinh tế đi liền giảm ô nhiễm môi trường:
Thuế BVMT là thuế gián thu, thu vào sản phẩm, hàng hóa khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường. Thuế BVMT đưa chi phí “gây ô nhiễm môi trường” (các yếu tố ngoại ứng) vào giá bán của hàng hóa nên thu thuế BVMT làm tăng giá sản phẩm, hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế.
Luật thuế BVMT quy định: Hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế bao gồm: Xăng, dầu, mỡ nhờn; Than đá; Dung dịch hydro-chloro-fluoro-carbon (HCFC); Túi nilông thuộc diện chịu thuế; Thuốc diệt cỏ thuộc loại hạn chế sử dụng; Thuốc trừ mối thuộc loại hạn chế sử dụng; Thuốc bảo quản lâm sản thuộc loại hạn chế sử dụng; Thuốc khử trùng kho thuộc loại hạn chế sử dụng.
Thông tin tổng hợp trong vòng 5 năm trở về đây, số thu từ thuế BVMT liên tục tăng ổn định qua các năm từ năm 2012 đến năm 2016 (tổng số thu thuế BVMT năm 2012 là 11.160 tỷ đồng, năm 2013 là 11.512 tỷ đồng, năm 2014 là 11.970 tỷ đồng, năm 2015 là 27.020 tỷ đồng, năm 2016 ước khoảng 42.393 tỷ đồng); chiếm tỷ trọng khoảng 1,5% - 4,1% tổng thu ngân sách nhà nước và chiếm tỷ trọng khoảng 0,3% - 0,9% trên GDP hàng năm.
Là cơ quan được giao nhiệm vụ xây dựng đề án Luật thuế BVMT sửa đổi, Bộ Tài chính cho rằng, việc thu thuế BVMT góp phần khuyến khích sản xuất, sử dụng sản phẩm, hàng hóa thân thiện với môi trường; hạn chế việc sản xuất, sử dụng hàng hóa gây tác động xấu đến môi trường (như sử dụng xăng, dầu, than đá thải ra khí các-bon, lưu huỳnh; sử dụng dung dịch HCFC gây hiệu ứng nhà kính, suy giảm tầng ôzôn, biến đổi khí hậu), qua đó đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế bền vững gắn với BVMT.
Luật thuế BVMT được ban hành đã thể hiện cam kết của Chính phủ Việt Nam trong vấn đề BVMT.
Khắc phục những vướng mắc
Theo Bộ Tài chính, Luật thuế BVMT cần thiết phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, như về đối tượng chịu thuế, thời điểm tính thuế, khung thuế BVMT... để phù hợp hơn, cũng như khắc phục một số vướng mắc, tồn tại.
Đơn cử, dự luật đưa túi ni lông thuộc đối tượng chịu thuế. Luật thuế BVMT hiện hành chỉ quy định túi ni lông thuộc diện chịu thuế là loại túi, bao bì chung chung nên trong quá trình triển khai thực hiện có nhiều vướng mắc liên quan đến việc nhận diện hình dạng túi ni lông (túi, bao bì) thuộc đối tượng chịu thuế.
Để giải quyết vấn đề này, tại Nghị định số 69/2012/NĐ-CP ngày 14/9/2012 của Chính phủ đã có quy định về túi ni lông thuộc diện chịu thuế (là loại túi, bao bì nhựa mỏng có hình dạng túi- có miệng túi, có đáy túi, có thành túi và có thể đựng sản phẩm trong đó).
Tuy nhiên, để nâng cao tính pháp lý đối với quy định này thì cần sửa đổi, bổ sung quy định về túi ni lông thuộc diện chịu thuế tại Luật thuế BVMT.
Luật thuế BVMT hiện hành quy định chỉ thu đối với xăng gốc hóa thạch, không thu thuế đối với ethanol (E100). Đối với xăng sinh học (như xăng E5, E10 - chứa 5%, 10% ethanol tương ứng) thì chỉ tính thu thuế BVMT đối với số lượng xăng gốc hóa thạch. Như vậy, chính sách thuế BVMT hiện hành đã thể hiện định hướng khuyến khích sử dụng xăng sinh học.
Mức thuế tuyệt đối thuế BVMT là mức thuế được quy định bằng số tiền tính trên một đơn vị hàng hóa chịu thuế.
Do đó, để khuyến khích hơn nữa việc sử dụng xăng sinh học theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ thì cần bổ sung xăng sinh học vào đối tượng chịu thuế BVMT và nghiên cứu, đề xuất mức thuế ưu đãi phù hợp, nhằm tạo chênh lệch hơn nữa giữa giá xăng khoáng và xăng sinh học.
Dự kiến điều chỉnh khung tính thuế
Theo cơ quan soạn đề án luật, việc điều chỉnh biểu khung thuế BVMT là cơ sở đề điều chỉnh mức thuế cụ thể, qua đó sẽ góp phần nâng cao hơn nữa trách nhiệm và nhận thức của tổ chức, cá nhân đối với môi trường và khuyến khích sản xuất, tiêu dùng hàng hóa thân thiện với môi trường; đồng thời để phù hợp với chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước trong thời gian tới, nhất là trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng, phải thực hiện lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu đối với xăng dầu theo các cam kết quốc tế.
Dự kiến mức thuế đối với xăng, dầu, mỡ nhờn sẽ điều chỉnh theo hướng mức thuế tối thiểu bằng mức thuế cụ thể đang áp dụng. Mức thuế tối đa bằng 2 lần mức thuế tối đa trong khung thuế hiện hành.
"Riêng dầu hỏa giữ như khung thuế hiện hành, vì dầu hỏa là mặt hàng thiết yếu phục vụ cho đa số người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa", Bộ Tài chính giải thích.
Đối với xăng sinh học (xăng E5, E10) cần thiết quy định: Mức thuế tối đa, mức thuế tối thiểu của xăng E5 và E10 bằng 90% và 85% tương ứng mức thuế tối thiểu, mức thuế tối đa của xăng khoáng (tương tự như quy định về mức thuế tiêu thụ đặc biệt ưu đãi đối với xăng sinh học theo Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt hiện hành: xăng khoáng là 10%, xăng E5 là 9%, xăng E10 là 8,5%).
Đối với túi ni lông thuộc diện chịu thuế, Bộ Tài chính đề xuất cần thiết điều chỉnh mức thuế tối thiểu bằng mức thuế cụ thể đang áp dụng; mức thuế tối đa bằng 2 lần mức thuế cụ thể đang áp dụng. Cụ thể, khung mức thuế sẽ là 40.000- 80.000 đồng/kg./.
Đức Minh