Luật Quản lý nợ công mới gồm 10 Chương,ôngbốLuậtQuảnlýnợcôngsửađổlịch thi đấu torino 63 Điều, quy định về hoạt động quản lý nợ công (QLNC) bao gồm huy động, sử dụng vốn vay, trả nợ và các nghiệp vụ QLNC.
Tại buổi công bố, ông Trương Hùng Long, Cục trưởng Cục Quản lý nợ và đối ngoại của Bộ Tài chính đã giải đáp nhiều vấn đề được các phóng viên quan tâm liên quan đến những nội dung mới của Luật Quản lý nợ công.
Liên quan “Ngưỡng cảnh báo nợ công” quy định tại điều 21, Luật QLNC, ông Trương Hùng Long cho biết đây là khái niệm mới được bổ sung vào Luật QLNC năm 2017. Bên cạnh khái niệm trần nợ công đã có trước đây, Luật có thêm khái niệm ngưỡng để cảnh báo khi mức nợ công tiến gần đến mức trần và theo đó thực hiện các biện pháp để xử lý, kiểm soát. Đây là một thông lệ quốc tế phổ biến mà Luật lần này đã tiếp cận. Trong Luật QLNC cũng quy định rõ mức ngưỡng nợ công do Quốc hội quyết định trong từng thời kỳ. “Về mặt bản chất, ngưỡng là để đưa ra các biện pháp để kiểm soát. Khi nợ đến ngưỡng, chúng ta phải kiểm soát các nhu cầu về vay nợ, đồng nghĩa kiểm soát bội chi, cho vay lại, hạn mức về bảo lãnh, để đảm bảo nợ công không tiến sát đến trần”, ông Trương Hùng Long cho biết.
Trả lời câu hỏi về mức vốn vay nước ngoài ký kết hiện nay đã vượt mức vốn vay nước ngoài 300.000 tỷ đồng được quy định trong kế hoạch trung hạn, lãnh đạo Cục Quản lý nợ công cho biết vấn đề này hiện nay Chính phủ đã giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm giải trình, báo cáo Quốc hội. Với Bộ Tài chính, trong kế hoạch tài chính 5 năm, mức vốn vay nước ngoài cho đầu tư được Chính phủ phê chuẩn là 300.000 tỷ đồng. Tuy nhiên đây là tổng mức giải ngân của giai đoạn 2016 – 2020, không phải là tổng số ký kết.
Ông Trương Hùng Long giải thích, trước khi có giải ngân thì các dự án phải qua quá trình đàm phán, ký kết. Trong giai đoạn 2016 – 2020, Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các bộ ngành để có chủ trương cho các dự án đầu tư mới. Những dự án này là chủ trương, cần phải có quá trình, qua đàm phán mới trở thành dự kiến giải ngân của giai đoạn đó. Những dự án mới đang chủ trương, chưa đàm phán, giải ngân thì chưa hình thành các khoản nợ.
Tuy nhiên, đại diện Cục Quản lý nợ cũng cho biết nếu trong giai đoạn này chúng ta đẩy mạnh tốc độ giải ngân vượt qua mức 300.000 tỷ đồng thì chắc chắn tổng mức đầu tư từ Nhà nước sẽ phải giảm trừ phần vốn trong nước để dành cho vốn nước ngoài, để đảm bảo cân đối vĩ mô.
Có một thực tế, trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang tranh thủ các nguồn vốn ưu đãi nước ngoài. Từ 1/7/2017, Ngân hàng Thế giới (WB) đã chấm dứt cho Việt Nam vay ODA. Hết năm 2018, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cũng chấm dứt việc này, và một số các quốc gia khác cũng đang chuẩn bị tương tự. Với EU, theo quy định từ 2017 trở về trước các thành tố ưu đãi trong khoản vay của các nước thành viên cho Việt Nam là 25% (không có ràng buộc). Tuy nhiên, từ 2018 trở đi tỷ lệ này còn 15%. “Do đó, chúng ta nên tranh thủ giai đoạn này để tận dụng số vốn ODA còn lại”, ông Trương Hùng Long nói.