【kq leeds】TP.HCM quản lý thế nào đối với hàng trăm DN sau cấp phép

tphcm quan ly the nao doi voi hang tram dn sau cap phep

Tiệm tạp hóa này đăng ký trụ sở của DN nhập lậu hơn 2 tấn ngà voi. Ảnh: T.H

Một quận quản lý hơn 30.000 DN

Ông Sử Ngọc Anh,ảnlýthếnàođốivớihàngtrămDNsaucấpphékq leeds Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư TP.HCM cho biết, tính đến ngày 20/3/2018, trên địa bàn TP.HCM có 340.978 DN (có đăng ký mã số thuế). Trong đó 7.958 DN có vốn đầu tư nước ngoài.

Theo ông Ngọc Anh, số liệu thống kê cho thấy, có nhiều quận có số lượng DN rất lớn, như: quận 1 và quận Tân Bình, mỗi quận có trên 30.000 DN điều này đặt ra cho các địa phương và cơ quan quản lý có các giải pháp hữu hiệu để tổ chức quản lý theo chức năng được phân công.

Với số lượng hoạt động trên địa bàn rất lớn, nhưng theo bà Nguyễn Thị Thanh Nguyệt, Trưởng phòng Đăng ký kinh doanh, Sở Kế hoạch và Đầu tư TP.HCM, UBND quận, huyện chưa chủ động xây dựng cơ sở dữ liệu về DN hoạt động trong ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước được giao, phạm vi quản lý; chưa chủ động xây dựng phương án, công cụ trao đổi thông tin DN với Sở Kế hoạch và Đầu tư, Cục Thuế và Cục Hải quan TP.HCM để phục vụ công tác quản lý nhà nước; chưa thực hiện tốt việc công khai thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của DN theo quy định của pháp luật chuyên ngành; chưa thực hiện tốt việc công bố công khai DN, đơn vị trực thuộc DN có hành vi vi phạm hành chính...

Tại cuộc họp, đại diện một số quận, huyện TP.HCM cho rằng, công tác quản lý DN có nhiều bất cập do quá nhiều cơ quan quản lý. Từ khi Luật DN năm 1999 có hiệu lực đến nay, việc quản lý nhà nước đối với DN được chuyển từ “tiền kiểm” thành “hậu kiểm”, việc quản lý nhà nước đối với hoạt động của DN thuộc trách nhiệm của các sở, ban, ngành và UBND cấp huyện theo quy định của pháp luật chuyên ngành.

Chẳng hạn, Sở Công Thương, UBND quận, huyện quản lý nhà nước về hoạt động của DN trong lĩnh vực công thương (sản xuất, thương mại, quản lý thị trường,…). Sở Y tế, UBND quận, huyện quản lý nhà nước về hoạt động của DN trong lĩnh vực y tế (Khám, chữa bệnh; bán buôn - bán lẻ dược phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm…). Cơ quan quản lý thuế (Cơ quan Thuế và cơ quan Hải quan) quản lý nhà nước DN về quản lý thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế...

Khó thu hồi giấy chứng nhận đăng ký

Theo bà Nguyễn Thị Thanh Nguyệt, trong năm 2017, Sở Kế hoạch và Đầu tư TP.HCM đã thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của 600 DN, với lý do các DN này không báo cáo tình hình tuân thủ Luật DN.

Trong thời gian qua, UBND các quận huyện cũng đề nghị Sở Kế hoạch và Đầu tư TP.HCM thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của các DN không hoạt động tại trụ sở đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, theo quy định tại Luật DN không quy định trường hợp này phải thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cũng không quy định DN phải hoạt động tại trụ sở đăng ký.

Để có cơ sở thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký DN, nếu qua kiểm tra không liên lạc được với DN tại trụ sở đăng ký kinh doanh, UBND các quận, huyện gửi danh sách đến chi cục thuế cùng cấp để xác định DN đó ngừng hoạt động kinh doanh có báo cáo với cơ quan Thuế, nếu quá 1 năm ngưng hoạt động không báo cáo thì thông báo cho Sở Kế hoạch và Đầu tư để rà soát và thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nếu DN cũng không thông báo ngưng hoạt động tại sở này.

Trước thực trạng một số đối tượng sử dụng chứng minh nhân của người khác để thành lập DN làm ăn phi pháp, bà Nguyệt cho biết, DN được cấp Giấy chứng nhận đăng ký DN khi đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận đăng ký DN theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 Luật DN, hồ sơ có đầy đủ giấy tờ theo quy định tại Luật DN và nội dung các giấy tờ đó được đầy đủ theo quy định của pháp luật. Luật DN và các văn bản hướng dẫn thi hành không có quy định cơ quan đăng ký kinh doanh phải kiểm tra nhân thân người đại diện theo pháp luật khi thành lập DN.

Khi có phản ánh của người dân về việc có đối tượng sử dụng giấy chứng minh nhân dân đã thất lạc (đã mất) trước đó để đăng ký thành lập DN, Sở Kế hoạch và Đầu tư đề nghị cơ quan Công an có văn bản kết luận hồ sơ đăng ký DN là giả mạo làm cơ sở thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký DN hoặc hủy bỏ giấy chứng nhận đăng ký thay đổi trên cơ sở hồ sơ giả mạo theo quy định tại Khoản 3 Điều 62, Khoản 1 Điều 63 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính phủ về đăng ký DN.