Đây là kiến nghị được đưa ra tại Tọa đàm về giá nước sinh hoạt do Tạp chí Môi trường và Đô thị,Đềxuấtxâydựngluậtvềsảnxuấtcungcấpnướcsạtrận đấu johor dt Tạp chí Cấp thoát nước Việt Nam phối hợp tổ chức mới đây, tại Hà Nội.
Các địa phương chưa xây dựng định mức dự toán sản xuất nước sạch
Ông Nguyễn Tiến Thỏa – Chủ tịch Hội Thẩm định giá Việt Nam, nguyên Cục trưởng Cục Quản lý giá, Bộ Tài chính cho biết, hiện nay, về mặt pháp lý đã có nhiều văn bản quy định về định giá nước. Theo đó, các văn bản pháp lý đã quy định rất chi tiết, cụ thể về nguyên tắc định giá nước, phương pháp xác định giá nước, thẩm quyền quyết định giá nước. Trong đó, về thẩm quyền quyết định giá nước, Bộ Tài chính ban hành khung giá nước sạch sinh hoạt trên phạm vi toàn quốc, còn ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt phương án giá nước và ban hành biểu giá nước sạch sinh hoạt trên địa bàn do địa phương quản lý, phù hợp với khung giá nước chung.
Tại tọa đàm, nhiều đại biểu đặt vấn đề, trên cơ sở các quy định pháp luật hướng dẫn về định giá nước, nhưng tại sao có trường hợp trên cùng một địa phương lại có những giá nước khác nhau. Trả lời thắc mắc này, ông Thỏa cho biết, có 3 lý do dẫn đến giá nước của mỗi doanh nghiệp (DN) cung cấp khác nhau, dù trên cùng một tỉnh.
Thứ nhất, do khác nhau về đầu vào cho sản xuất nước. Cụ thể, hiện có 2 loại nước đầu vào cho sản xuất nước là nước mặt và nước ngầm, tương ứng với 2 loại nước này, chi phí xử lý nước khác nhau, dẫn đến giá thành khác nhau.
Thứ hai, theo quy định tại Nghị định 117/2007/NĐ-CP, phương án giá nước sạch phải được tính toán phù hợp với điều kiện cụ thể của các nguồn vốn của dự án. Trong khi đó, theo quy định tại Nghị định 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, quy định điều kiện về năng lực tài chính của DN để đảm bảo việc sử dụng đất theo tiến độ của dự án đầu tư, là phải có vốn thuộc sở hữu của mình để thực hiện dự án không thấp hơn 20% tổng mức đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất dưới 20 héc ta; không thấp hơn 15% tổng mức đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất từ 20 héc ta trở lên.
Như vậy, chi phí sản xuất nước của DN mà vốn đi vay đầu tư dự án lên đến 80% sẽ khác với DN chỉ phải vay vốn là 50%.
Thứ ba, theo quy định về khấu hao tài sản được quy định tại Thông tư 45/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính về hướng dẫn chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định (TSCĐ), thì TSCĐ đã khấu hao hết giá trị nhưng vẫn đang sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì không được trích khấu hao. Như vậy, một DN có khoản chi phí khấu hao TSCĐ được tính vào chi phí hợp lý sẽ khác với DN không có khoản chi phí khấu hao TSCĐ được tính vào chi phí hợp lý, từ đó sẽ tạo nên giá nước khác nhau.
Toàn cảnh tọa đàm. Ảnh: D.T |
Tuy nhiên, có một vấn đề được ông Thỏa nhấn mạnh đó là, các văn bản pháp luật về định giá nước có quy định, giá nước phải tính đúng, tính đủ trên cơ sở các định mức kinh tế kỹ thuật do các cơ quan có thẩm quyền ban hành.
“Năm 2014, Bộ Xây dựng đã ban hành Quyết định số 590/QĐ-BXD về công bố định mức dự toán sản xuất nước sạch và quản lý, vận hành mạng cấp nước. Đây là khung định mức dự toán sản xuất nước sạch chung để các địa phương tham khảo, vận dụng vào việc xác định và quản lý giá tiêu thụ nước sạch của địa phương.
Tuy nhiên, đến nay, hầu hết các địa phương chưa xây dựng được hoặc không xây dựng định mức dự toán sản xuất nước sạch, do đó, đây là bất cập, “kẽ hở” mà một số DN cung cấp nước có thể lợi dụng để lập phương án giá nước sai, không đúng quy định hoặc có thể dẫn đến những tiêu cực trong quá trình phê duyệt phương án giá nước” – ông Thỏa cho biết.
Cần đưa ngành sản xuất, cung cấp nước sạch vào ngành kinh doanh có điều kiện
Ông Nguyễn Hồng Tiến – Phó Chủ tịch thường trực kiêm Tổng Thư ký Hội Cấp thoát nước Việt Nam cho rằng, nước là mặt hàng đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt, sức khỏe của hàng triệu người dân. Tuy nhiên, hiện vẫn còn quá nhiều lỗ hổng trong quản lý về an ninh nguồn nước.
“Từ vụ việc ô nhiễm nguồn nước sông Đà xảy ra mới đây cho thấy, ở quy mô quốc gia, chúng ta đang bỏ ngỏ một vấn đề rất quan trọng, đó là vấn đề về an ninh nguồn nước, nhất là nguồn nước mặt được sử dụng cho sản xuất nước sạch. Vụ việc tràn dầu thải ở Nhà máy nước mặt Sông Đà nếu không phải là dầu thải mà là chất khác, thậm chí là chất độc thì hậu quả không biết sẽ nghiêm trọng đến mức nào? Bởi vậy, cần đưa ngành sản xuất, cung cấp nước sạch sinh hoạt bắt buộc phải là ngành sản xuất kinh doanh có điều kiện” – ông Tiến nêu quan điểm.
Ở tầm vĩ mô hơn, ông Tiến kiến nghị, trong tương lai, cần tiến tới xây dựng, ban hành một bộ luật về sản xuất, cung cấp nước sạch. Trong bộ luật đó, cần xây dựng những quy định cụ thể về nhiều vấn đề như bảo đảm an ninh nguồn nước, bảo đảm cấp nước an toàn, quản lý rủi ro trong sản xuất, cung cấp nước, giá nước… Có như vậy mới nâng cao hiệu quả công tác quản lý ngành sản xuất nước, cũng như thúc đẩy ngành sản xuất, cung cấp nước của Việt Nam đáp ứng tốt hơn nhu cầu của cuộc sống người dân.
Đồng quan điểm trên, ông Trần Quang Hưng – Chuyên gia ngành nước chia sẻ thêm, sở dĩ trong dư luận vẫn còn có những bức xúc của người dân xung quanh câu chuyện về giá nước không hẳn ở vấn đề giá nước được điều chỉnh tăng nhiều hay ít…, mà quan trọng hơn là giá nước tăng như vậy có tương xứng với chất lượng nước, chất lượng dịch vụ cung cấp hay không…
“Có 2 vấn đề rất quan trọng trong câu chuyện về giá nước mà người dân luôn đòi hỏi là các chi phí sản xuất cấu thành giá nước cần phải được minh bạch và chất lượng nước, chất lượng dịch vụ cần phải tương xứng với mức giá mà người dân phải bỏ ra để mua nước. Nếu mọi thông tin không minh bạch, hay đơn cử như việc cung cấp nước mà nay có, mai mất hay chất lượng nước kém… mà giá nước cứ đề xuất tăng cao thì đương nhiên người dân sẽ bức xúc” – ông Hưng nói./.
Diệu Thiện