【ket quả bóng đá ngoại hạng anh】Nửa đầu tháng 11: Giá hàng nào tăng, giảm?

Thị trường thế giới

Trong 15 ngày đầu tháng 11/2013,ửađầuthángGiáhàngnàotănggiảket quả bóng đá ngoại hạng anh giá một số mặt hàng thiết yếu trên thị trường thế giới như: giá chào bán gạo xuất khẩu (giá FOB) của Thái Lan, giá đường, giá xăng dầu giảm. Giá chào bán gạo xuất khẩu của Việt Nam, giá phân bón, giá LPG và giá chào phôi thép tăng. Cụ thể giá một số mặt hàng như sau:

Giá chào bán gạo xuất khẩu (giá FOB) của Thái Lan loại gạo 5% tấm giá khoảng 420-430 USD/tấn, giảm 10 USD/tấn; loại 25% tấm giá khoảng 400-405 USD/tấn, giảm 10-15 USD/tấn; giá chào bán gạo của Việt Nam, loại 5% tấm giá dao động phổ biến ở mức 393-410 USD/tấn, tăng 20-33 USD/tấn, loại 25% tấm dao động ở mức 365-375 USD/tấn, tăng 10-25 USD/tấn.

Tại New York, giá đường thô giao tháng 3/2014 khoảng 18,04-18,32 Uscent/Lb, giảm 0,27 – 0,44 Uscent/Lb; tại Luân Đôn, giá đường trắng giao tháng 12/2013 khoảng 473,6 - 485,6 USD/tấn, giảm khoảng 11,9 - 18,4 USD/tấn. Giá phân Urê trên hai thị trường Yuzhny và Baltic dao động tăng nhẹ 2-8 USD/tấn.

Từ ngày 1/11/2013, giá LPG trên thị trường thế giới (CP) tháng 11/2013 do Công ty Aramco của Ả Rập công bố tăng bình quân 60 USD/tấn. Giá chào phôi thép tại thị trường Đông Nam Á ở mức 530 – 540 USD/tấn CFR, tăng 5 - 15 USD/tấn so với cùng kỳ tháng trước. Giá xăng, dầu bình quân 15 ngày đầu tháng 11/2013 so với bình quân tháng 10/2013 giảm từ 1,31%-6,32% (tùy từng chủng loại), trong đó giá dầu thô WTI giảm mạnh nhất (6,32%).

Thị trường trong nước

Trong 15 ngày đầu tháng 11/2013, giá các mặt hàng như: Giá thóc, gạo tại miền Bắc, giá lúa tại miền Nam, giá xi măng tại nhà máy và giá đường ổn định; giá phân bón, giá LPG và giá gạo tại miền Nam tăng, giá thực phẩm tươi sống tăng nhẹ hoặc ổn định tùy loại; riêng giá thép giảm. Cụ thể giá một số mặt hàng như sau:

Tại miền Bắc, giá thóc tẻ thường dao động phổ biến ở mức 6.000-8.500 đồng/kg, giá gạo tẻ thường dao động phổ biến ở mức 8.000-12.500 đồng/kg. Tại Nam Bộ, giá lúa dao động ở mức 5.000-5.950 đồng/kg, ổn định; gạo thành phẩm xuất khẩu loại 5% tấm giá trong khoảng 7.975-8.300 đồng/kg, tăng 500-725 đồng/kg; loại 25% tấm giá khoảng 7.225-7.550 đồng/kg, tăng 350-575 đồng/kg.

Tin manual
Giá thực phẩm tươi sống nửa đầu tháng 11 có xu hướng tăng nhẹ. Ảnh: N.P

Giá thực phẩm tươi sống 15 ngày đầu tháng 11/2013 có xu hướng tăng nhẹ hoặc ổn định (tùy loại) so với cùng kỳ tháng 10/2013. Giá một số mặt hàng thủy hải sản và rau củ quả giảm nhẹ. Thịt lợn hơi: Miền Bắc giá phổ biến khoảng 39.000-47.000 đồng/kg, tăng 1.000-5.000 đồng/kg; miền Nam giá phổ biến khoảng 39.000-47.000 đồng/kg, tăng 1.000-4.000 đồng/kg. Thịt lợn mông sấn tăng 5.000 đồng/kg: Miền Bắc và miền Nam giá phổ biến khoảng 85.000-95.000 đồng/kg.

Giá một số loại rau củ quả giảm nhẹ hoặc ổn định (tùy loại) so với cùng kỳ tháng 10/2013. Giá một số mặt hàng thuỷ hải sản như cá chép, tôm, mực ống… giảm nhẹ. Riêng tôm sú tăng so với tháng 10/2013. Cụ thể: Cá chép 70.000-85.000 đồng/kg, giảm 5.000 đồng/kg; tôm sú 180.000-187.000 đồng/kg, tăng 2.000-5.000 đồng/kg; cá quả 117.000-120.000 đồng/kg, tăng 2.000 đồng/kg. Giá bán lẻ đường trên thị trường ổn định so với cùng kỳ tháng 10/2013, hiện phổ biến ở mức 18.000 đồng/kg - 21.000 đồng/kg.

Giá urê tại miền Bắc, giá phổ biến khoảng 8.600-9.000 đồng/kg, tăng khoảng 100 đồng/kg; tại miền Nam, mức giá phổ biến khoảng 8.400-9.000 đồng/kg, tăng khoảng 100-200 đồng/kg. Giá bán xi măng tại các Công ty sản xuất xi măng thuộc Tổng công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam ổn định so với thời điểm tăng giá gần nhất vào ngày 10/9/2013.

Giá bán LPG trong nước, mức tăng khoảng từ 16.500 - 18.000đ/bình 12kg (tùy từng doanh nghiệp). Tổng công ty Thép Việt Nam đã điều chỉnh giảm giá bán thép xây dựng từ ngày 04/11/2013 với mức giảm 700 đồng/kg. Các công ty liên doanh với Tổng công ty Thép Việt Nam vẫn giữ ổn định giá bán. Giá xăng giảm tối thiểu 241 đồng/lít theo Công văn số 15442/BTC-QLG do Bộ Tài chính ban hành ngày 11/11/2013 v/v điều hành kinh doanh xăng dầu.

Giá bán vàng 99,99% tại các công ty kinh doanh vàng bạc nhà nước tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh lần lượt dao động ở mức 3,703-3,700 triệu đồng/chỉ (đầu tháng), đến giữa tháng, giá vàng giảm và cùng dao động phổ biến ở mức 3,653 triệu đồng/chỉ, với mức giảm lần lượt là 50.000-47.000 đồng/chỉ.

Tại ngân hàng thương mại, tỷ giá niêm yết ở mức mua vào/bán ra đầu tháng là 21.075-21.115 đồng/USD và đến giữa tháng tỷ giá được niêm yết ở mức 21.080-21.120 đồng/USD, có sự tăng nhẹ cả chiều mua vào và bán ra ở mức 5 đồng/USD. Trên thị trường tự do, tỷ giá USD giao dịch phổ biến ở các mức 21.080-21.090 đồng/USD (mua vào) và 21.110-21.120 đồng/USD (bán ra)./.

(Nguồn: Cục Quản lý giá, Bộ Tài chính)