【kết quả az alkmaar】Giải mã sự sụt giảm của chứng khoán từ góc độ định giá

giai ma su sut giam cua chung khoan tu goc do dinh gia

Việc điều chỉnh về mức định giá thấp hơn là cần thiết cho sự tăng trưởng bền vững của thị trường chứng khoán. Ảnh: N.Hiền

Định giá cao kỷ lục

Trước tháng 11/2017,ảimãsựsụtgiảmcủachứngkhoántừgócđộđịnhgiákết quả az alkmaar chứng khoán Việt Nam giao dịch với nền định giá P/E (tỷ lệ giữa giá trị trường và lợi nhuận ròng trên mỗi cổ phần) khá thấp, trung bình ở mức 14,2 lần. Trong 5 năm qua, P/E của VN-Index chỉ dao động trong vùng từ 10,8 – 17,4 lần và luôn thấp hơn so với các nước trong khu vực. Mức định giá này là hợp lý trong bối cảnh quy mô thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhỏ.

Tuy nhiên, đợt tăng nhanh và mạnh từ cuối năm 2017 đã đẩy định giá lên rất cao. Với tăng trưởng lợi nhuận toàn thị trường là 23% trong năm 2017, VN-Index đã tăng 48% trong năm 2017 và tăng thêm hơn 22% chỉ trong hơn 3 tháng đầu năm. Định giá P/E vì thế bị đẩy vượt lên cao so với nền giá lịch sử, đạt 21,5 lần vượt qua cả thị trường Mỹ (20,2 lần) và các nước trong khu vực.

Với vị thế dẫn đầu ngành, các cổ phiếu trụ cột được định giá ở mức cao hơn thị trường chung. P/E bình quân của nhóm top 30 cổ phiếu lớn nhất 3 sàn đạt tới 29,4 lần, đáng chú ý như các cổ phiếu VIC, ROS, VRE đều có P/E trên 50 lần.

Nhóm ngân hàng tuy có P/E không quá cao, nhưng định giá P/B (tỷ lệ được sử dụng để so sánh giá của một cổ phiếu so với giá trị ghi sổ của cổ phiếu đó) cũng đã ở mức đắt so với các cổ phiếu ngân hàng trên thế giới. P/B của VCB đỉnh điểm lên tới 5 lần trong khi bình quân của nhóm cổ phiếu ngân hàng có quy mô tương đương chỉ vào khoảng 1,5 lần. Tương tự, P/B của nhiều mã ngân hàng khác như BID, VPB, HDB, ACB cũng đều vượt ngưỡng 3 lần.

Các chuyên gia của SSI đánh giá, trong tình hình đó, việc điều chỉnh về mức định giá thấp hơn là hoàn toàn lành mạnh và cần thiết cho sự tăng trưởng bền vững của thị trường chứng khoán.

Sau đợt giảm sâu, tới cuối tháng 4, P/E của VN-Index đã được về 18,7 lần, ngang với mức cuối năm 2017. Định giá thị trường Việt Nam cũng được đưa về sát các nước trong khu vực như Thái Lan (18 lần), Malaysia (17,5 lần).

Với mức tăng trưởng lợi nhuận 22,8% của quý 1/2018, PEG (tỷ lệ được sử dụng để định giá một cổ phiếu khi tính đến tốc độ tăng trưởng thu nhập từ cổ phiếu đó) của thị trường Việt Nam đang ở mức 0,82 lần, có thể coi là mức khá hợp lý so sánh với PEG của thị trường Mỹ là 1,15 lần với tăng trưởng lợi nhuận dự kiến cho năm 2018 là 17,7%.

Dẫu vậy, nếu quan sát kỹ hơn thì mức tăng trưởng lợi nhuận 22,8% chưa phải phổ biến. Tăng trưởng của thị trường đang phụ thuộc rất nhiều vào nhóm ngành ngân hàng và chứng khoán với nhiều yếu tố hỗ trợ tích cực đặc thù của riêng năm 2018. Nếu loại trừ hai nhóm ngành này, tăng trưởng chung chỉ đạt mức khoảng 10%.

Vẫn còn nhiều nhóm ngành tăng trưởng thấp và thậm chí âm, bao gồm ngành tiêu dùng như VNM, SAB, bất động sản và xây dựng như NVL, ROS, CTD, TDH, VGC. Kết quả lợi nhuận những quý tiếp theo cần được cải thiện hơn nữa mới có thể tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng của thị trường.

Khối ngoại liên tục bán ròng

Đối với giao dịch của khối ngoại, xét riêng giá trị khớp lệnh, nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng 3.000 tỷ đồng trong tháng 4 và bán tiếp 1,8 nghìn tỷ đồng chỉ trong 3 ngày sau dịp nghỉ lễ. Tính từ tháng 2, khối ngoại đã bán ròng 8.400 tỷ đồng, nhiều hơn giá trị mua ròng trong tháng 1 là 5.300 tỷ đồng.

“Khi cơn hưng phấn của thị trường dâng cao, sự đảo chiều của dòng vốn nước ngoài ít được nhà đầu tư trong nước chú ý. Tuy nhiên khi khối ngoại bán ròng 3 tháng liên tiếp, nhà đầu tư trong nước cuối cũng đã nhận thấy tầm ảnh hưởng của dòng vốn này” – báo cáo của SSI chỉ ra.

Nhóm cổ phiếu bị bán ròng nhiều nhất trong tháng 4 là bất động sản với VIC bị bán ròng 2.100 tỷ đồng (chỉ tính giao dịch khớp lệnh). Đây có thể coi là một nguyên nhân khiến cổ phiếu vốn hóa lớn nhất thị giảm điểm, tạo áp lực lên thị trường chung. Ngoài VIC, xu hướng bán ròng mạnh còn thể hiện rõ ở nhiều cổ phiếu trụ khác như VCB, VJC, NVL và MSN.

Khó có một lý giải đầy đủ về nguyên nhân khiến khối ngoại gia tăng bán ròng trong tháng 4. Song theo SSI, có thể dễ dàng nhận thấy rằng xu hướng bán ròng đã xuất hiện vào đầu tháng 2, thời điểm thị trường chứng khoán thế giới giảm mạnh, cục diện kinh tế và lãi suất trên thế giới thay đổi khi chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump quyết liệt thực thi các chính sách bảo vệ các doanh nghiệp Mỹ. Khả năng FED nâng lãi suất nhanh hơn so với dự kiến và rủi ro về cuộc chiến thương mại lan rộng rất có thể đã có ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, việc có thêm nhiều cổ phiếu vốn hóa lớn IPO và lên niêm yết cũng có thể dẫn đến việc cơ cấu lại danh mục của các quỹ nước ngoài.

Ngược với xu hướng bán ròng trên sàn của nhà đầu tư nước ngoài, dòng tiền ở các quỹ ETF đang cho những dấu hiệu tích cực hơn. Quỹ VFM VN30 không còn bị rút vốn và thay vào đó dòng tiền được ghi nhận vào trở lại quỹ từ cuối tháng 4 và liên tục trong những phiên đầu tháng 5. Quỹ VanEck bị rút vốn nhưng không liên tục. Tổng cộng trong tháng 4, các quỹ ETF đã thu hút được thêm 107 tỷ, đảo ngược dòng vốn sau khi bị rút hơn 930 tỷ đồng trong tháng 3.

Năm 2018 vẫn được dự báo là một năm thành công với ngành ngân hàng. Lợi nhuận sau thuế quý 1/2018 của 12 ngân hàng niêm yết tăng 51,6% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn so với mức tăng trưởng 36% trong năm 2017, trong đó có những ngân hàng đạt mức tăng gấp 2-3 lần như ACB, HDB, TPB và EIB. Cả các ngân hàng hàng đầu cũng đạt tăng trưởng ấn tượng như VCB tăng 58,7%. Nhờ có nhóm ngân hàng, tổng lợi nhuận sau thuế toàn thị trường tăng 22,9% trong quý 1/2018. Một số doanh nghiệp lớn như VIC, MSN, VJC và nhóm ngành chứng khoán cũng đạt mức tăng trưởng cao.