【tỷ số newcastle jets】Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp hoạt động

DN

Dịch Covid-19 làm nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất,ạođiềukiệnthuậnlợinhấtchodoanhnghiệphoạtđộtỷ số newcastle jets kinh doanh.

Đây là những khuyến nghị về chính sách ứng phó và giảm thiểu tác hại của dịch Covid-19 được các chuyên gia đề xuất, tại cuộc tọa đàm của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR).

Tránh “ngăn sông cấm chợ”

Tại cuộc tọa đàm, nhiều chuyên gia thống nhất quan điểm sự phục hồi hoàn toàn của nền kinh tế chỉ có thể đạt được khi dịch bệnh được kiểm soát ở cả ở trong và ngoài nước và các kịch bản kinh tế cho năm 2020 đều phụ thuộc vào thời điểm chúng ta kiểm soát dịch bệnh. Tuy nhiên, bất kể dịch kéo dài đến khi nào, các biện pháp chống dịch phải song hành với các biện pháp duy trì và hỗ trợ hoạt động kinh tế, nếu không sẽ dẫn đến hậu quả nặng nề về kinh tế, kéo theo các hậu quả về an sinh xã hội.

Theo PGS.TS Phạm Thế Anh - Kinh tế trưởng của VEPR, điều kiện của Việt Nam có những ràng buộc khiến chúng ta không thể thực hiện các chính sách hỗ trợ ồ ạt như nhiều nước lớn. Đó là nguồn lực tài khóa còn hạn hẹp, chính sách tiền tệ phải cân đối mục tiêu lạm phát và tỷ giá. Đặc biệt quan trọng hơn là đồng tiền Việt Nam là đồng tiền yếu, không mạnh như đồng Yên hay Euro nên nếu áp dụng các gói nới lỏng lớn, đồng nội tệ có thể mất giá, rất dễ dẫn đến việc dòng vốn chạy ra nước ngoài, gây nguy cơ khủng hoảng kép.

Do đó, các chính sách tiền tệ, tài khóa phải đúng trọng tâm, tránh dàn trải, gây tốn kém nguồn lực. Chẳng hạn việc giảm đồng loạt giá điện, tiền thuê đất… cho mọi hộ gia đình, doanh nghiệp có thể gây tốn kém nguồn lực, giảm hiệu quả hơn nhiều so với việc xác định đúng đối tượng, mức độ ảnh hưởng để hỗ trợ. Đặc biệt, trong mọi hoàn cảnh phải tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp còn có khả năng hoạt động, có phương án thích ứng vừa sản xuất vừa phòng chống dịch bệnh; tránh tình trạng “ngăn sông cấm chợ” cực đoan như ở một số địa phương vừa qua.

“Không nên cấm đoán cực đoan quá ở một số ngành nghề, một số địa phương không có dịch. Các doanh nghiệp có thể tiếp tục sản xuất khi đã áp dụng các biện pháp phòng dịch. Hiện nay, số lượng doanh nghiệp còn có thể hoạt động là rất quý” - ông Phạm Thế Anh nói. Đi cùng với đó là những biện pháp tháo gỡ các vướng mắc về thể chế chính sách, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp cần được tiếp tục đẩy mạnh.

Một giải pháp khác đã được đề cập nhiều là thúc đẩy đầu tư công bởi đây là thời điểm nền kinh tế cần đến chi tiêu của Nhà nước hơn bao giờ hết. Theo đó, các chuyên gia ủng hộ việc chuyển các dự án BOT sang đầu tư công, khẩn trương triển khai các dự án đã được phê duyệt để tạo sự lan toả nhanh đến nền kinh tế, thúc đẩy hoạt động của doanh nghiệp, giảm bớt ảnh hưởng của dịch bệnh.

Bên cạnh đó, khác với các cuộc khủng hoảng trước, khu vực phi chính thức bị ảnh hưởng rất nhiều nên cần ưu tiên thực hiện các chính sách an sinh xã hội như chi trả bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ người bị tạm thời ngưng việc. Trợ cấp cho người nghèo, cá nhân, hộ kinh doanh bị mất kế sinh nhai…

Chính sách tài khóa không nên áp dụng ồ ạt

Theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, đây là cuộc khủng hoảng bất ngờ mà chúng ta chưa từng chứng kiến. Do cuộc khủng hoảng này tác động trước hết đến sức khoẻ, tâm lý của con người, nên không thể chỉ dùng chính sách tiền tệ, hay tài khóa để giải quyết được các tác động. Tất cả các chính sách như giãn thuế, khoanh nợ, giảm lãi suất… đều tốt nhưng do đây không phải là cuộc khủng hoảng tài chính mà là về con người, nên phải tập trung cho những vấn đề như an sinh xã hội, việc làm.

Đồng tình với các quan điểm này, TS. Nguyễn Đức Thành - nguyên Viện trưởng VEPR phân tích, hiện nay khi chính sách tiền tệ đang phải chịu ràng buộc nhiều mục tiêu, một số ý kiến cho rằng phải dựa vào chính sách tài khóa như các nước đã làm. Song với Việt Nam, bên cạnh dư địa tài khoá hạn hẹp, hạ tầng để phân phối trực tiếp cho người dân, doanh nghiệp là khó kiểm soát, dễ gây ra tiêu cực, lãng phí, thất thoát… Do đó, TS. Nguyễn Đức Thành cho rằng, chính sách tài khóa cũng không nên được sử dụng ồ ạt mà phải thận trọng. Với điều kiện nền kinh tế nước ta có khu vực nông thôn lớn, khả năng chống chọi của người dân khu vực này còn tương đối tốt dù đã khó khăn hơn. Tuy nhiên, nhóm dễ bị tổn thương hơn là dân nghèo ở thành thị, do họ không có nhiều cơ hội việc làm như ở nông thôn, lại bị ảnh hưởng nhiều bởi chính sách giãn cách nên rất dễ nảy sinh những vấn đề về an ninh, an sinh xã hội ở thành thị. Vì vậy, nhóm này cần được lưu tâm, hỗ trợ hơn.

Về chính sách cho dài hạn, các chuyên gia của VEPR cho rằng cần có chính sách dài hơi để giữ các nền tảng vĩ mô ổn định như về tỷ giá, lạm phát, thâm hụt, nợ công… để tạo điều kiện cho sự phục hồi và phát triển của nền kinh tế sau đại dịch; từng bước tăng cường đệm tài khóa để tăng sức chống chịu cho nền kinh tế; tiếp tục đa dạng hóa các thị trường xuất nhập khẩu, tránh phụ thuộc quá vào một vài thị trường lớn để giảm thiểu rủi ro.

“Từ bài học của giai đoạn 2008 – 2009, sự hồi phục của kinh tế là rất khó khăn do đi kèm với lạm phát cao, lãi suất lớn, đồng tiền mất giá liên tục. Tuy nhiên gần đây, các nền tảng vĩ mô của Việt Nam đã tốt hơn rất nhiều so với giai đoạn đó, nên sau đợt bệnh dịch lần này, tôi hy vọng sự hồi phục của nền kinh tế sẽ nhanh hơn” - PGS.TS Phạm Thế Anh đánh giá.

VEPR đưa ra 3 kịch bản về kinh tế năm 2020. Ở kịch bản lạc quan nhất, dịch bệnh không bùng phát mạnh ở Việt Nam và được khống chế hoàn toàn vào giữa tháng 5. Theo kịch bản này, tăng trưởng quý II là -3,3%, quý III là 7,2%, quý IV là 7,4% và cả năm đạt 4,2%.

Trong kịch bản thứ 2, bệnh dịch kéo dài và chỉ được khống chế hoàn toàn vào nửa sau quý III/2020. Tăng trưởng quý II theo kịch bản này là -4,9%, quý III là -1,1%, quý IV là 7% và cả năm là 1,5%.

Với kịch bản xấu nhất, bệnh dịch chỉ được khống chế hoàn toàn vào cuối năm. Khi đó tăng trưởng kinh tế quý II là -5,1%, quý III là -5,3%, quý IV là 2,8% và cả năm là -1%.

H.Y